Hòa thượng Khánh Hòa: Sự tiếp biến hội lục hòa

Cập nhật: 25/06/2021

Tóm lại, Hội Lục Hòa do Hòa thượng Lê Khánh Hòa – Thích Như Trí kiến khai đã đặt nền móng cho phong trào chấn hưng Phật giáo khắp cả nước, nâng cao trình độ tu học cho hàng Tăng lữ, cập nhật Phật giáo đến quần chúng bằng chữ Việt.

  1. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ

          Ngày tôi chạy giặc thật là sang

          Quân Pháp đưa đi có mấy ngàn

          Tả chi tàu chiến ngăn đầy bến

          Hữu dực xe tăng đón chật đàng

          Tàng lộng phi cơ che rợp đất

         Tiểu liên rốc kết tợ ngô rang

         Tâm long đại bác như pháo nổ

        Hoan hô bom dội chúc bình an

                    Hòa Thượng Thái Không (Trưởng tử của Hòa thượng Lê Khánh Hòa)

Từ khi đất nước bị đô hộ, người Pháp đã cố tình thay thế tất cả những gì truyền thống của Dân tộc Việt-Nam từ Tôn giáo, Văn hóa, giáo dục, phong tục, tập quán, … Người dân phải sống trong cảnh nô lệ lầm than, sưu cao thuế nặng. Con người chẳng khác gì hàng hóa phải đóng thuế thân. Chư Tăng thường bị chính quyền bắt làm xâu. Phật-giáo thời bấy giờ bị kỳ thị ngày càng đi xuống, chỉ còn hình thức cúng bái, mê tín dị đoan. Chư tăng hầu hết chỉ lo cúng đám, làm nghề sinh nhai. Đến nổi ông Tăng không khác gì người tục! Đạo Phật bấy giờ bị người chê là yếm thế, tiêu cực hay nhu nhược.

Hưởng ứng phong trào Chấn Hưng Phật-giáo, chư Tôn Hòa Thượng Trưởng Lão, Thượng Tọa, Đại Đức họp lực với một số Phật tử Cư sĩ có nhiệt tâm với Đạo, bắt đầu lo việc Chấn Hưng Phật-giáo, mở các trường gia giáo để đào tạo Tăng tài và thuyết pháp cho tín đồ nghe. Bên cạnh đó, hòa thượng Lê Khánh Hòa còn xuât bản tạp chí Pháp Âm để cổ động cho Phong trào Chấn Hưng Phật-giáo bằng chữ Việt.

Hòa thượng Lê Khánh Hòa sinh năm Đinh Sửu (1877). Năm Ất Mùi (1895), khi 19 tuổi, Ngài đến chùa Long Phước, quận Ba Tri, xin xuất gia học đạo.  Sau đó đến tham học tại chùa Kim Cang (tỉnh Tân An), nơi đây được Hòa thượng Long Triều trực tiếp giảng dạy.  Thời gian này Ngài rất chăm chỉ và năng nỗ trong việc học đạo, nên nghe đâu có bậc thạc đức thì Ngài luôn tìm đến cầu học, không ngại gian khó, chẳng nài xa cách.  Nhờ tinh thần tiến thủ đó mà Ngài đi đến đâu cũng đều được các bậc trưởng thượng quý mến.

Năm Canh Tý (1900), Hòa thượng thọ cụ túc giới tại Tổ Đình Linh Nguyên, Hòa thượng Thích Chơn Hương - Minh Phương làm Đàn Đầu Hòa thượng. Sau đó, Ngài theo học Trường Phật học Sông Tra do Hòa thượng Thích Chơn Hương - Minh Phương và Hòa thượng Thích Hoan Hỉ - Minh Hòa giảng dạy. Sau đó, năm Tân Sửu (1901) Ngài cầu pháp với Hòa thượng Thích Hoan Hỉ - Minh Hòa.

Năm Giáp Thìn (1904), Ngài nhập hạ đầu tiên tại chùa Long Hoa (quận Gò Vấp, tỉnh Gia Định xưa).  Nơi đây, được sự khuyến khích của chư Tôn đức, Ngài đã giảng Kinh Kim Cang Chư Gia, rất được các vị Pháp sư và đại chúng ở trường hạ quý mến.  Từ đó về sau mỗi lần nhập hạ, Ngài đều có giảng kinh.

Hòa thượng Lê Khánh Hòa từng học đạo tại Tổ đình Long Thạnh (Q. Bình Tân) và đắc pháp với Hòa thượng Thích Hoan Hỉ - Minh Hòa được thấy qua câu đối:

              Long Thạnh tổ giới đức thanh cao tục diệm kế đăng Như Trí

             Tuyên Linh sư đàn ba la mật truyền y phú bát Thái Không

Năm Bính Thìn (1916), lúc này Ngài đang trụ trì chùa Tuyên Linh, tỉnh Bến Tre.  Với trình độ thâm đạt Phật lý và đức tính ôn hòa, Ngài luôn trăn trở trước viễn cảnh ngôi nhà chánh pháp có nguy cơ sụp đổ, thường hay than rằng:  “Phật pháp suy đồi, Tăng đồ thất học và không đoàn kết.  Do đó Ngài quyết tâm thi hành nhiệm vụ của một Sứ Giả Như Lai, mong muốn thực hiện thống nhất Phật giáo và chỉnh đốn Tăng già”. 

Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, thân sinh Bác Hồ, tá túc ở Chùa Tuyên Linh trong khoảng thời gian từ năm 1920 đến 1928. Cụ Phó bảng cùng Hòa thượng Lê Khánh Hòa (Như Trí) bàn việc dân, việc nước và đã tặng câu đối liễn:

             Khánh chúc nhân dân kỳ tổ quốc giang sơn bất lão

             Hòa bình thế giới nguyện Phật gia pháp hải trường xuân

Trong thời gian lưu trú tại chùa, cụ Phó bảng mở lớp dạy học, xem mạch bốc thuốc cho nhân dân trong vùng và cụ cũng tặng câu đối khác:

                 Như thị Như lai xuất thế khai thông hướng dẫn mê đồ quy Phật pháp

           Trí vi trí giả hiện thân thuyết pháp hô hào trí thức thượng thiền tâm

Ở đây, cụ Nguyễn Sinh Sắc cũng dạy Nho học cho đệ tử Hòa thượng Lê Khánh Hòa (Như Trí) như Hòa thượng Thích Thái không, Hòa thượng Thích Thành Đạo, Hòa thượng Thích Thành Nghiêm, Hòa thượng Thích Thành Lệ Giảng sư Huệ Chí … và cụ còn gặp gỡ các ông: Trần Văn An, Huỳnh Khắc Mẫn, Lê Văn Phát, và trong số họ sau này có người trở thành lớp đảng viên đầu tiên của Đảng bộ Bến Tre.  

Mong muốn rất to lớn và chính đáng này, trong hoàn cảnh thời bấy giờ, không phải ai cũng có.  Biết được Hòa thượng Lê Khánh Hòa đang ôm ấp hoài bão thiết tha đó, một vị Hòa thượng hỏi Ngài với đại ý việc cổ động chấn hưng Phật giáo ấy có mấy người đồng tình đồng tâm hưởng ứng và tại sao nhiều chùa giàu có không đứng ra chung lo với Ngài?  Ngài từ tốn đáp rằng:  Ở đời, vàng bạc bao giờ cũng ít, ngói đá lúc nào cũng nhiều.  Chúng ta dù ít nhưng cố gắng sẽ thành công.  Khó gì bằng lìa bỏ tình yêu cha mẹ vợ con và đời sống cao sang quyền quý, vùi thân trong núi tuyết rừng già mà đức Bổn Sư ta còn bỏ được và làm được thay!.

  1. SỰ HÌNH THÀNH HỘI LỤC HÒA

Năm Canh Thân (1920), Hòa thượng Lê Khánh Hòa (chùa Tuyên Linh) vận động thành lập “Hội Lục Hòa Liên Hiệp” để đoàn kết chư tăng trong những ngày giỗ Tổ ở các chùa và phát động phong trào Chấn hưng Phật giáo Nam Kỳ.  Đó là mục tiêu ban đầu nằm trong hoài bão, nhằm tạo sự đoàn kết, tương thân theo đúng pháp Phật trong giới Tăng sĩ.  Ngài còn lo mở trường gia giáo để đào tạo Tăng tài hầu đảm nhiệm trọng trách hoằng dương chánh pháp, dìu dắt người sau.  Bên cạnh đó Ngài cần mẫn dịch Kinh, Luật, Luận ra chữ quốc ngữ để phổ cập được trong mọi tầng lớp quần chúng.

Phong trào Chấn hưng Phật giáo ở Nam Kỳ phát triển nhờ hoạt động tích cực của chư thiền đức nổi danh thời đó như Hòa thượng Lê Khánh Hòa - Thích Như Trí (chùa Tuyên Linh quận Mỏ Cày, Bến Tre), Hòa thượng Thích Từ Văn (chùa Hội Khánh, Thủ Dầu Một); Sư Thích Thiện Chiếu (chùa Linh Sơn, Sài Gòn), Hòa thượng Thích Như Phòng - Hoằng Nghĩa (chùa Giác Viên, Q.11), Hòa thượng Thích Như Nhãn - Từ Phong (chùa Giác Hải, Q.6)... Hòa thượng Thích Từ Phong tuy học vấn không nổi tiếng uyên bác, nhưng tác phong đạo đức cao, có óc canh tân và nhiệt tâm xiển dương chánh pháp, cố hết sức lo chỉnh lý lại tăng đồ và cải cách sinh hoạt Phật giáo để trừ các tệ đoan trong Phật giáo ở Nam Kỳ.

Năm 1922, khi Hòa thượng Lê Khánh Hòa đang là Chánh chúng Trường Hương mùa an cư kiết hạ tại chùa Giác Lâm đã cùng chư sơn Hội Lục Hòa mừng Giới Đàn tổ chức tại chùa với câu liễn đối:

            Từ - Hải - Viên thông khải tam hoàng quang huy châu pháp giới

            Thanh - Phong - Hoằng đạo khai thất tụ phổ thí độ nhơn gian

            (Từ Ân, Giác Hải, Giác Viên - trọn mở tam đàn, sáng ngời trong pháp giới

            Thanh Ấn, Từ Phong, Hoằng Nghĩa - khai đạo tịnh, độ người cõi nhân gian)

Về sau này, đệ tử thiền gia truyền nhau câu nói, “Nhất Chiếu, nhì Linh, tam Không, tứ Đạo”. Đó là để chỉ các bậc tôn đức thạch trụ tài giỏi một là Sư Thiện Chiếu, hai là Hoà thượng Thích Pháp Linh, ba là Hoà thượng Thích Thái Không, bốn là Hoà thượng Thích Thành Đạo.

  1. SỰ TIẾP BIẾN HỘI LỤC HÒA

Năm 1923, Hội Lục Hòa Liên Hiệp được mở rộng khắp Nam Kỳ, thành lập với tên mới là “Hội Lục Hòa Liên Xã” nhằm tập hợp “chư sơn thiền đức” những tăng sĩ yêu nước có hoài vọng vào một tổ chức để duy trì nền tảng Phật giáo cổ truyền, sống theo sáu phép Lục Hòa trên tinh thần Phật giáo.

Do tình hình giặc Pháp lúc bấy giờ khủng bố mạnh, nhằm để giữ vững tổ chức và người, đối phó với âm mưu lợi dụng tôn giáo của Pháp, đệ tử của Hòa thượng Lê Khánh Hòa là Hòa thượng Thích Thành Đạo (Trần Văn Đước), Giảng sư Thích Huệ Chí (Ngô Đơn Quế) đứng ra xin giấy phép chính thức đổi tên “Hội Lục Hòa Liên Xã” và chính thức thành lập “Giáo Hội Lục Hòa Tăng Việt Nam” tại chùa Long An số 135 đường Cộng Hòa thuộc quận nhì Sài Gòn (nay đường Nguyễn Văn Cừ, quận 1) vào ngày 9/3/1952. Hội nghị đã cử Hội đồng Chứng Minh và Ban Chức Sự Trung ương Giáo hội. Hội đồng Chứng Minh Trung ương Giáo hội gồm có: Hòa thượng Thích Đạt Thanh chùa Giác Ngộ (Q.10), Hòa thượng Thích Hoằng Đức chùa Bình Hòa, Hòa thượng Thích Phước An chùa Bảo Quốc trụ sở chùa Trường Thạnh.  Ban Chức Sự Trung ương Giáo hội do Hòa thượng Thích Thiện Tòng chùa Trường Thạnh (Quận 1) làm Đại Tăng trưởng, Hòa thượng Thích Pháp Nhạc trụ trì chùa Long An (Quận 1) làm Tăng Giám, Hòa thượng Thích Thành Đạo trụ trì chùa Phật Ấn làm Phó Tăng Giám, Giảng sư Thích Huệ Chí là Tổng Thư Ký, Ban Hoằng Pháp gồm Trưởng ban Hòa thượng Thích Huệ Thành trụ trì chùa Long Thiền (Đồng Nai), Phó ban Hòa thượng Thích Pháp Lan trụ trì chùa Khánh Hưng (Q.3)… Văn phòng Giáo hội đặt tại chùa Long An (Quận 1).

Giáo hội cũng thành lập một trường học mang tên “Phật học đường Lục Hòa”, được xây dựng cạnh chùa Giác Viên (quận 11) do Giảng sư Huệ Chí làm giám đốc (khi bị bom làm sập trường được dời về chùa Thiên Tôn (Q.5) và một tạp chí lấy tên là Phật học tạp chí, tòa soạn đặt tại chùa Phật Ấn (Quận 1) do Hòa thượng Thích Thành Đạo làm chủ nhiệm và Giảng sư Huệ Chí làm chủ bút. Bên cạnh Giáo Hội Lục Hòa Tăng, đó là Giáo Hội Lục Hòa Phật tử thành lập cùng trong năm do Hòa thượng Thích Minh Thành làm Hội trưởng, Hòa thượng Thích Thiện Hào làm Phó Hội trưởng, trụ sở đặt tại chùa Long Vân (Gia Định). Mục đích chính của Hội nhằm chăm lo tốt đời sống các Phật tử có tuổi, giúp đỡ họ được chu tất khi qua đời. Hội cũng có một nghĩa trang tại Gò Dưa (Thủ Đức) lấy kinh phí làm hộ pháp ngoại cho Giáo Hội Lục Hòa Tăng.

Năm 1956, Giáo Hội Lục Hòa Tăng Việt Nam gửi văn bản yêu cầu chính phủ Đệ Nhất Cộng Hòa  (1955-1963) thi hành hiệp định Giơ-ne-vơ tiến hành tổng tuyển cứ thống nhất đất nước, không lấy sông Bến Hải - vĩ tuyến 17, chia cắt hai miền Nam Bắc.

Năm 1957, việc yêu cầu chẳng những không thành, mà chế độ Ngô Đình Diệm còn hòng bóp chết hoạt động và bắt bớ những nhà yêu nước. Chúng thường theo dõi, bắt Hòa thượng Thích Pháp Nhạc trụ trì chùa Long An (Nancy, Q.1) đánh gẫy xương sống, được thả về chùa 7 ngày sau thì mất. Hòa thượng Thích Thiện Nghị Tăng trưởng Đô Thành trụ trì chùa Đức Lâm (Q. Tân Bình) và Cư sĩ Lê Hoàng Minh lần lượt bị bắt đày ra Côn Đảo. Chúng cũng bắt Thượng tọa Thích Minh Gia (chùa Long Vân, Bình Thạnh), Thượng tọa Thích Minh Giác (chùa Long Vân, Bình Thạnh), cư sĩ Tín Hải … đưa về nhà giam Chí Hòa. Do vậy, văn phòng dời về chùa Phật Ấn.

Năm 1960, Hòa thượng Thích Minh Nguyệt nguyên Hội trưởng Phật Giáo Cứu Quốc Nam Bộ là đốc giáo Trường Phật Học Đường Lục Hòa sau cuộc họp tại chùa Thiên Tôn (Q.5), cùng Thượng tọa Thích Tín Tâm (Long An), Đại Đức Thích Bửu Định (Đồng Nai) cũng đồng bị bắt đày ra Côn Đảo. Hòa thượng Thích Thành Đạo Tăng Giám Giáo Hội Lục Hòa Tăng trụ trì chùa Phật Ấn bị bắt đưa về nhà giam Chí Hòa. Còn Hòa thượng Thích Minh Đức Phó Tăng Giám Giáo Hội Lục Hòa Tăng lánh nạn chùa Long Định (Tịnh Biên, Châu Đốc), Hòa thượng Thích Thiện Hào Trưởng Ban Hoằng pháp Giáo Hội Lục Hòa Tăng và là Hội trưởng Hội Lục Hòa Phật Tử thoát ly vô chiến khu được cử làm Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam. Lãnh đạo Giáo Hội Lục Hòa Tăng lúc bấy giờ chỉ còn Hòa thượng Thích Bửu Ý trụ trì Tổ đình Long Thạnh (Q. Bình Tân) và Hòa thượng Thích Huệ Thành trụ trì chùa Long Thiền (Đồng Nai) tiếp tục thể hiện lập trường kiên định cùng nhân dân đánh đuổi kẻ thù chung, giành độc lập thống nhất đất nước. Một lần nữa văn phòng lại phải di dời về chùa Giác Lâm.

Năm 1961, khi chư vị lãnh đạo Giáo Hội Lục Hòa Tăng Việt Nam bị khủng bố, tất cả các chùa mang bảng hiệu Giáo Hội Lục Hòa Tăng Việt Nam đều buộc tháo dỡ, thì Hòa thượng Thích Trí Hưng trụ trì chùa Thiền Lâm (Phú Lâm) kết hợp Võ Tử Hạ thân với chính quyền Diệm mời chư sơn về chùa Giác Lâm (Q.Tân Bình) họp để tiến hành thành lập Giáo Hội Cổ Sơn Môn. Nhưng Hòa thượng Thích Đạt Thanh trụ trì chùa Long Quang (Bà Điểm) chứng minh của Giáo Hội Lục Hòa Tăng, [người cùng với Hòa thượng Thích Khánh Hòa học chung trường Phật học Song Tra (Đức Hòa), Ngài là bậc thượng thủ của Nam Kỳ, cùng Hòa thượng Thích Tịnh Khiết thượng thủ Trung Kỳ và Hòa thượng Thích Mật Ứng thượng thủ Bắc Kỳ họp tại chùa Tự Đàm (Huế) tiến hành thành lập Giáo Hội Tăng Già Toàn quốc 1951] không đồng tình với thỏa hiệp.

Khi Hòa thượng Thích Bửu ý đương chức Tổng Thư Ký Hội Lục Hòa Tăng lúc bấy giờ đến họp trễ, Hòa thượng Thích Đạt Thanh ngầm ra hiệu “rầy và bảo ra sau rửa mặt rồi lên họp”. Hòa thượng Thích Bửu ý ra đằng sau và bỏ về Tổ Đình Long Thạnh. Vì thiếu chữ ký đồng thuận của Hòa thượng Thích Bửu ý nên việc lập Giáo Hội Cổ Sơn Môn của Hòa thượng Thích Trí Hưng lôi kéo Giáo Hội Lục Hòa Tăng là không thành. Điều đó cho thấy rõ ràng rằng, Giáo Hội Phật Giáo Cổ Truyền Việt Nam không thể nhầm lẫn gọi là Phật Giáo Cổ Sơn Môn.

Đứng trước tình hình chư sơn Giáo Hội Lục Hòa bị chính quyền bố ráp, Hòa thượng Thích Bửu ý cử đại đức Thích Thiện Thạnh và Thầy Huệ Xướng (tôi) vào chiến khu báo cáo tình hình và xin chỉ thị. Hòa thượng Thích Thiện Hào yêu cầu chư sơn nhẫn nại và thay đổi hình thức hoạt động.

Ngày 09/03/1962, Đại hội thường niên đã suy cử Hòa thượng Thích Huệ Thành trụ trì chùa Long Thiền (Tỉnh Đồng Nai) làm Tăng Giám Trung Ương Giáo Hội Lục Hòa. Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, Hội Chủ Tổng Hội Phật giáo Việt Nam, cảm mến đức hạnh của Hòa thượng Thích Huệ Thành, Tăng Giám Trung Ương Giáo Hội Lục Hòa nhân dịp vào Sài gòn, lưu trú tại văn phòng thường trực Chùa Xá Lợi, số 89 đường Bà Huyện Thanh Quan đã gửi bức thư vào ngày 05/07/1963 có nội dung: “Từ lâu tôi có ý nguyện thăm viếng chư Hòa thượng và chiêm bái các Tổ đình niềm Nam. Nhưng thế nào trên hai mươi hôm rồi, tôi chưa đi đâu được vì phần tuổi già sức yếu, phần khổ bệnh đeo mang.tuy nhiên, dầu nằm một chỗ, tôi rất thấu hiểu thái độ cao quí và nỗi khổ tâm của Hòa thượng, vì vậy tôi lấy làm thâm cảm và hết sức tán thán “đơn tâm vị pháp” của Hòa thượng. Nhân bệnh tình tôi có phần thuyên giảm, tôi vội vàng viết thư này kính thỉnh Hòa thượng thừa nhàn quang lâm chùa Xá Lợi để huynh đệ chúng ta cùng đàm Phật sự cho phỉ tình hoài vọng của tôi”.

Sau khi chính quyền Ngô Đình Diệm sụp đổ, vào ngày 15/02/1964 Giáo Hội Lục Hòa tổ chức cuộc họp tại chùa Phụng Sơn (chùa Gò, Q.11) bàn việc vận động tinh thần yêu nước trong chư tăng thông qua hoạt động trường hương tại các chùa. Đặt biệt, chư tôn đức lãnh đạo Giáo Hội Lục Hòa khai hạ tại chùa Giác Viên Q.11 năm 1964, chùa Phụng Sơn hai năm liên tiếp 1965-1966, và tại chùa Long Thiền 1967-1968.

Từ ngày 02-09 tháng 07 năm 1968, nhằm để tránh tai mắt chính quyền Đệ Nhị Cộng Hòa, Hòa thượng Thích Huệ Thành trụ trì chùa Long Thiền (Tỉnh Đồng Nai) và Hòa thượng Thích Bửu ý trụ trì chùa Long Thạnh (Q. Bình Tân) đã kêu gọi vận động chư tôn đức từ Tỉnh Quảng Ngãi trở vào Cà Mau gồm 36 tỉnh thành và 80 quận hội cùng tham gia phong trào yêu nước và tiến hành đại hội tại chùa Trường Thạnh (Q.1) thống nhất chuyển tên Giáo Hội Lục Hòa Tăng và Lục Hòa Phật Tử thành Giáo Hội Phật Giáo Cổ Truyền Việt Nam có hiến chương, chia thành hai Hội đồng: Viện Tăng thống và Viện Hoằng đạo.

Trong đại hội, Hòa thượng Thích Huệ Thành trụ trì chùa Long Thiền (Tỉnh Đồng Nai) được suy cử làm Tăng Thống. Hòa thượng Thích Minh Thành trụ trì chùa Long Vân (Q. Bình Thạnh) được suy cử Phó Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Cổ Truyền Việt Nam, và các thành viên Hòa thượng Thích Pháp Tràng chùa Phước Long (Tiền Giang), Hòa thượng Thích Hoằng Thông chùa Sắc Tứ Long Hội (Tiền Giang) Hòa thượng Thích Huệ Tánh chùa Phước Lưu (Trảng Bàng, Tây Ninh), Hòa thượng Thích Trí Tấn chùa Hưng Long (Tân Uyên, Bình Dương)...

Nhân dịp này, Hòa thượng Thích Thành Đạo chúc mừng Hòa thượng Thích Huệ Thành trụ trì chùa Long Thiền (Đồng Nai) với câu đối liễn:

             Dày công tu học Huệ giải thông minh hô hào đoàn kết giữa Trung Nam giữ gìn gia phong Phật Tổ.

            Chức vị tối cao, Thành tâm cương quyết chấn chỉnh Lục Hòa Toàn quốc đáng nêu gương lãnh đạo Tòng Lâm.

Hòa thượng Thích Pháp Lan tặng:

            Phật pháp hoằng khai độ chúng sinh

            Giáo môn thâm nhập đích chơn kinh

            Cổ văn tham khảo thâm thiền học

           Truyền tụng thanh danh tán thán thinh

            Huệ Nhựt tảo trừ vân dụ ế

           Thành tâm cảm kích triệt hư linh

           Tăng tài phạm vũ vi sư hẩu

           Thống lãnh tòng lâm tác hải kình.

Viện Hoằng đạo Giáo hội Phật giáo Cổ Truyền Việt Nam lúc bấy giờ suy cử Hòa thượng Thích Minh Đức với vai trò Viện trưởng, Hòa thượng Thích Thiện Thuận trụ trì Tổ Đình Giác Lâm suy cử làm Phó Viện trưởng và Hòa thượng Thích Bích Lâm (Tổ Đình Nghĩa Phương, Nha Trang) làm Phó Viện trưởng kiêm Chánh Đại Diện Miền Trung và Hòa thượng Thích Bửu ý được suy cử Tổng Thư ký Viện Hoằng Đạo. Hòa thượng Thích Huệ Đức chùa Già Lam (Phụng Hiệp, Cần Thơ) Chánh Đại Diện Miền Tây, Hòa thượng Thích Huệ Thông chùa Thái Bình (Cần Giuộc, Long An) Tổng vụ Tăng Sự, Hòa thượng Thích Pháp Âm chùa Thiên Hưng (Q. Bình Thạnh) Tổng vụ Xã Hội kiêm Tăng trưởng tỉnh Gia Định, Hòa thượng Thích Pháp Dõng chùa Tường Quang (H. Hóc Môn) Tổng vụ Hoằng Pháp, Hòa thượng Thích Bửu Chơn chùa Kiểng Phước (chùa Tây Đường, Q.6) làm Tăng trưởng tỉnh Chợ Lớn; Hòa thượng Thích Hồng Năng chùa Pháp Minh (Q.8) làm Tăng Trưởng Đô Thành, Hòa thượng Thích Thiện Nghị chùa Đức Lâm (Q. Tân Bình) làm Phó Tăng Trưởng Đô Thành,  Hòa thượng Thích Phước Quang chùa Phụng Sơn (chùa Gò, Q.11) làm Phó Tăng Trưởng Tỉnh Chợ Lớn.

Năm 1971, Hòa thượng Thích Minh Đức viên tịch, Đại Hội suy cử Hòa thượng Thích Thiện Thuận trụ trì Tổ Đình Giác Lâm làm Viện trưởng, Hòa thượng Thích Bửu ý được suy cử Phó Viện trưởng và Hòa thượng Thích Thiện Phú (chùa Giác Viên, Q.11) được suy cử Phó Viện trưởng Viện Hoằng Đạo Giáo Hội Phật Giáo Cổ Truyền Việt Nam và Thượng tọa Thích Trí Tâm (chùa Nghĩa Phương, Nha Trang) làm Tổng Thư KýViện Hoằng Đạo Giáo Hội Phật Giáo Cổ Truyền Việt Nam.

Năm 1974, Hòa thượng Thích Thiện Thuận  trụ trì Tổ Đình Giác Lâm viên tịch, Đại Hội bất thường suy cử Hòa thượng Thích Bửu ý làm Viện trưởng, và Hòa thượng Thích Thiện Phú (chùa Giác Viên, Q.11) được suy cử Phó Viện trưởng, Hòa thượng Thích Quảng Kim (chùa Trường Thạnh, Q.1) được suy cử Phó Viện trưởng và Thượng tọa Thích Trí Tâm (chùa Nghĩa Phương, Nha Trang) tiếp tục được cử làm Tổng Thư KýViện Hoằng Đạo Giáo Hội Phật Giáo Cổ Truyền Việt Nam.

Ngày 18/10/1979, khi đất nước được nối liền một dải, được sự hỗ trợ của chính quyền đoàn Phật giáo miền Nam đầu tiên ra tham vấn chư sơn miền Bắc đặt nền móng vận động thống nhất Phật giáo, gồm 12 thành viên: Trưởng đoàn Hòa thượng Thích Bửu ý, Phó đoàn Hòa thượng Thích Pháp Dõng (chùa Tường Quang), Thư ký Hòa thượng Thích Pháp Lan (chùa Khánh Hưng, Q.3), Phó Thư ký Thượng tọa Thích Trí Quảng (chùa Ấn Quang), Ủy viên Thượng tọa Thích Từ Nhơn (chùa Ấn Quang), Thượng tọa Thích Từ Thông (Tịnh Thất Huỳnh Mai), Thượng tọa Thích Huệ Thới – Minh Hạnh (chùa Ấn Quang), Đại Đức Thích Thiện Đức (chùa Pháp Vân, Q.3), Đại Đức Thích Minh Thành (chùa Ấn Quang), Đại Đức Thích Thiện Xuân (chùa Hạnh Nguyện), Đại Đức Thích Huệ Xướng (chùa Giác Lâm), Cư sĩ Tăng Quang Tuyền.

Năm 1981, Đại hội các tổ chức Phật giáo được tổ chức tại chùa Quán Sứ, Hà Nội. Một tổ chức mới ra đời, lấy tên là Giáo hội Phật giáo Việt Nam, là hợp nhất của 9 tổ chức:

Đoàn Giáo hội Phật giáo Cổ truyền Việt Nam tham dự gồm 12 thành viên: Trưởng đoàn Hòa thượng Thích Trí Tấn (chùa Hưng Long, Bình Dương), Phó đoàn Thượng tọa Thích Trí Tâm (Tổ Đình Nghĩa Phương, Nha Trang), Thư ký Đại Đức Thiện Xuân (chùa Hạnh Nguyện, Q. Tân Phú), Ủy viên Hòa thượng Thích Thiện Khải (chùa Thanh Lương, Biên Hòa), Hòa thượng Thích Huệ Đức (chùa Già Lam, Cần Thơ), Hòa thượng Thích Minh Nhuận  (chùa Long Vân, Bình Thạnh), Hòa thượng Thích Quảng Kim (chùa Trường Thạnh, Q.1), Thượng tọa Thích Huệ Sanh (chùa Giác Lâm, Tân Bình), Đại Đức Thích Huệ Xướng (chùa Giác Lâm, Tân Bình), Đại Đức Thích Nhật Ấn (chùa Long Thạnh, Bình Tân), Cư sĩ Thiện Trí – Lê Hoàng Minh, Cư sĩ Thiện Đức – Trương Hiến.

Tóm lại, Hội Lục Hòa do Hòa thượng Lê Khánh Hòa – Thích Như Trí kiến khai đã đặt nền móng cho phong trào chấn hưng Phật giáo khắp cả nước, nâng cao trình độ tu học cho hàng Tăng lữ, cập nhật Phật giáo đến quần chúng bằng chữ Việt. Bên cạnh đó, Hòa thượng còn thắp lên lòng nhiệt tình yêu nước trong Tăng Ni Phật tử. Sự tiếp biến từ “Hội Lục Hòa” đến “Giáo Hội Phật Giáo Cổ truyền Việt Nam” nhằm đáp ứng những thay đổi cần thiết tạo thành “Chiếc cầu nối” đối với mọi tổ chức Phật giáo, mọi tầng lớp Phật tử cùng đưa Phật pháp vào đời và bảo vệ đất nước. Ngày nay với ngôi nhà chung Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã “Kế thừa - ổn định và phát triển” những gì mà chư Tiền bối hữu công đã tạo nên. Chúng ta chắc chắn sẽ mãi không quên hành trạng của Hòa thượng Lê Khánh Hòa là tấm gương sáng cho nhiều thế hệ mai sau.

Tài liệu tham khảo

  1. Sa Môn Thích Thiện Hoa, 50 năm chấn hưng Phật giáo Việt Nam, Phật Học Viện Quốc Tế, 1970.
  2. Học giả Lê Quốc Sử, Tài liệu Phật giáo Gia Định – Sài gòn Tp. Hồ Chí Minh 300 năm.
  3. Ban Tôn giáo Chính phủ (1995), Một số tôn giáo ở Việt Nam, Nxb Hà Nội.
  4. Nguyễn Đại Đồng, “Nhìn lại tiến trình thống nhất Phật giáo Việt Nam trong thế kỷ XX”, Nghiên cứu Tôn giáo, số 4, 2008, tr.14 - 21.
  5. Nguyễn Lang (1994), Việt Nam Phật giáo sử luận, tập 3, Nxb Văn học Hà Nội, Hà Nội, tr.102.
  6. Hòa thượng Khánh Hòa và cuộc vận động chấn hưng Phật giáo (1921-1933), Trương Ngọc Tường.
  7. Http://www.bentre.gov.vn/Lists/ThongTinGioiThieu/ Lê Khánh Hoà (1887 – 1947)
  8. Http://phatgiao.org.vn/tham-luan-sach/201705/To-Le-Khanh-Hoa-voi-cong-cuoc-chan-hung-Phat-giao-27089/
  9. Http://phatgiaotravinh.vn/bai-viet/tieu-su-hoa-thuong-thich-khanh-hoa_1157.html.

   

                                                                                                               Trưởng sơn môn Phật giáo Cổ truyền Việt Nam

                                                                                                                             Hòa thượng Thích Huệ Xướng

Chia sẻ
Bài viết liên quan