Chương 7: Tam đọan luận của Logic hôc Phật giáo

Cập nhật: 18/10/2022

Nhân minh học Phật giáo phân biệt có tất cả 33 lỗi lầm logic (logical fallacies),

Chương 7: Tam đọan luận của Logic hôc Phật giáo

CHƯƠNG VII

TAM ĐOẠN LUẬN CỦA LOGIC HỌC PHẬT GIÁO

 

A. KHÁI NIỆM TAM ĐOẠN LUẬN

Dưới con mắt của Luận sư Dignaga, ông Tổ sáng lập ra Logic học Phật giáo, Tam đoạn luận chỉ là cái đuôi của nhận thức luận mà thôi, tuy rằng cái đuôi ấy cũng quan trọng. Bởi lẽ, vấn đề không phải là tự mình nhận thức đúng đắn, mà còn phải diễn đạt nhận thức đúng đắn đó làm cho người khác cũng nhận thức đúng đắn như mình. Đạo Phật trong quá trình truyền bá khắp nơi trên thế giới từ Á sang Âu Mỹ, từ Đông sang Tây, tuyệt đối không bao giờ dùng bạo lực, mà chỉ thuyết phục và thuyết phục. Mà vũ khí chính để thuyết phục là Logic học hay Nhân minh học.
 Trong cuốn “Triết học Ấn Độ“ tập II (Indianphilosophy), tiến sĩ Radhakrishnan, ngay trong bài dẫn nhập ở trang 17 đã nói rõ: “Đối với các tư tưởng gia Phật giáo lớn, Logic học là kho vũ khí chủ yếu, tạo ra những vũ khí phê phán hủy diệt phổ biến

Phê phán gì và hủy diệt gì? Tác giả viết tiếp: “Phật giáo phục vụ như 1 liều thuốc tẩy quét sạch tâm thức khỏi hậu quả xơ cứng của những trở ngại cổ xưa…”

Nguyên bản:” For the great Buddhist thinkers, logic was the main arsenal, where were forged the weapons of universal destructive criticism… Buddhism served as a cathartic in clearing the mind of the cramping effects of ancient obstructions…”,p.17 (sách đã dẫn).

 Với môn Logic học hay Nhân minh học Phật giáo được hoàn chỉnh bởi Luận sư Trần Na (Dignaga) vào thế kỷ VI Công Nguyên, sự nghiệp giác tha của đạo Phật được đẩy lên một bước mới. Công trình Logic học đồ sộ của ông, “Pramana samuccaya” (Hán dịch: Tập lượng luận) là một tập hợp nhiều công trình Logic học của ông viết rãi rác trong một thời gian dài, được ông soạn thông nhất trong một bộ sách duy nhất, có bản sớ giải của Jinerdrabuddhi. Đáng tiếc là bản Hán dịch của Nghĩa Tịnh đã bị thất lạc. Sự nghiệp truyền bá đạo Phật của Dignaga, thông qua các công trinh logic học của ông và học trò ông đã được nổi tiếng một thời với danh xưng “chinh phục thế giới” (“The conquest of the world”, “Buddhist logic-trang 34. Th Scherbatsky). Cũng như bậc Chuyển Luân Vương chinh phục toàn cõi Ấn Độ, và đặt Ấn Độ dưới quyền thống trị của mình, Luận sư Dignaga cũng chinh phục thế giới tức là toàn cõi Ấn Độ, và đặt Ấn Độ dưới sự thống trị của Phật giáo.

Bcác lỗi Logic trong Tam đoạn luận Phật giáo

Lofic học Phật giáo phân biệt có tất cả 33 lỗi lầm logic (logical fallacies), chia thành:

    1. 9 lỗi của tôn (lập tôn cũng như nói lập thuyết vậy, và tôn thường được diễn đạt thành mệnh đề gồm có chủ ngữ logic – tôn y tiền trần và vị ngữ logic- tôn y hậu trần).
    2. 14 lỗi của nhân là đạo lý được viện ra để chứng minh tôn hay là thuyết được lập ra là đúng đắn, không sai lầm.
    3. 10 lỗi của dụ hay ví dụ được dùng để minh họa. khiến cho tôn và nhân thêm sức thuyết phục.

I. Chín lỗi của Tôn

Chín lỗi của tôn gồm có ba nhóm là: Năm lỗi tương vi, Ba lỗi bất cực thành; và một lỗi tương phù cực thành. 

1. Năm lỗi tương vi

a. Hiện lượng tương vi

Lập một tôn, trái ngược với những sự vật ai cũng nhận thấy, gọi là hiện lượng tương vi. 

Thí dụ lập tôn: Rắn có chân

Hay là:

Lập tôn: Các loài thú vật đều có hai chân

Lập thuyết như vậy sai lầm ở nơi tôn, vì trái ngược với sự thật hiển nhiên nghe thấy, không cần kiểm nghiệm bằng nhân, dụ mà làm chi. Phạm lỗi như vậy gọi là hiện lượng tương vi.

b.  Tỷ lượng tương vi 

Hiện lượng là tri giac, nhận biết qua cảm quan như mắt, tai, mũi … một lối tri giác, nhận biết trực tiếp, thường được xem là đúng, chính xác. Tuy nhiên, trường hợp hiện lượng sai không ít, thí dụ như nhìn cái giây thừng mà tưởng lầm là con rắn. Còn trường hợp tỷ lượng sai, tỷ lượng tương vi cũng nhiều.

Thí dụ lập tôn: Âm thanh là thường tại, vì nghe được. 

Hay lập tôn:  Con tôi sẽ không chết, vì nó đang sống v.v…

Nói những điều như vậy đều phạm lỗi tỷ lượng tương vi, mà chỉ cần suy nghĩ một chút cũng thấy sai rồi.

  1. Tự giáo tương vi 

Người Phật giáo mà lập thuyết không có luân hồi, hay không có lý nhân quả thì đã phạm lỗi tự giáo tương vi rồi.

Hay tín đồ hồi giáo mà lập thuyết nói Mohamet không phải là Tiên tri, hay Allah không phải là Thượng Đế tối cao thì cũng đều là tự giáo tương vi cả. Tự giáo tương vi là lập một thuyết trái ngược với giáo lý của tôn giáo mình.

  1. Thế gian tương vi 

Lập một tôn trái ngược với nhận thức thông thường của thế gian

Thí dụ lập tôn: Vật lý học hay hóa học đều là nói chuyện suông tất cả, không có cơ sở thực tế.

Lập một tôn như vậy rõ ràng là trái ngược với hiểu biết thông thường của thế gian, khiến cho tôn lập ra lập tức bị nhiều người phản đối.

  1. Tự ngữ tương vi 

Đây là lỗi tự mình mâu thuẫn với chính mình ngay trong lời nói. 

Thí dụ lập tôn: Mẹ đẻ tôi là đàn bà đồng trinh. 
Lập tôn: Cha đẻ tôi chưa từng bao giờ dâm dục.

2. Ba lỗi bất cực thành

a. Năng biệt bất cực thành 

Năng biệt là thành phần thứ hai của Tôn, mà trong Logic học hay Nhân minh học gọi là hậu trần.

Như trong thí dụ:

Tôn: Âm thanh là vô thường

Thì vô thường là năng biệt. Tôn sở dĩ thành lập được là vì bên lập và bên đối phương đều nhất trí về hai thành phần của tôn. Ở đây, một bên không nhất trí được ở hậu trần của tôn, cho nên gọi lỗi này là năng biệt bất cực thành. Bất cực thành có nghĩa là không thành tựu, hay là không được địch luận (bên đối phương) công nhận.

Thí dụ (Tín đồ Gia Tô nói với tín đồ Phật giáo)

Tôn: Vạn vật là do Thượng Đế sáng tạo ra.

Đạo Phật tuy công nhận có vạn vật, nhưng không công nhận có Thượng Đế, không công nhận vạn vật là do Thượng Đế sáng tạo. Tín đồ Gia Tô lập thuyết như vậy là phạm lỗi “Năng biệt bất cực thành”.

b. Sở biệt bất cực thành 

Sở biệt là thành phần thứ nhất của Tôn. Trong tôn “Âm thanh là vô thường” thì sở biệt là Âm thanh. Một tôn được lập đúng đắn phải có cả hai thành phần tiền trần và hậu  trần của tôn đều được cả hai bên lập và phá công nhận.

Thí dụ (tín đồ Gia Tô lập tôn nói với một tín đồ Phật giáo)

Tôn: “Thượng Đế là đấng tạo ra tất cả”.

Phật giáo không công nhận có Thượng Đế, tôn này phạm lỗi “Sở biệt bất cực thành”. 

Một ví dụ khác, tín đồ Phật giáo

Lập tôn: “Trí tuệ Bát Nhã là siêu việt”

Trình bày tôn ấy với một tín đồ đạo Gia Tô vốn không thừa nhận có trí tuệ Bát Nhã. Đây cũng là phạm lỗi “Sở biệt bất cực thành”.

c. Câu bất cực thành 

Đây là một tôn mà cả hai thành phần năng và sở biệt đều không được cả hai bên công nhận.

Thí dụ (tín đồ Gia Tô lập tôn đối với Phật tử)

Tôn: “Thượng Đế chủ trì phiên xử án cuối cùng”.

Phật giáo không thừa nhận có Thượng Đế cũng không thừa nhận có phiên xử cuối cùng.

3. Tương phù cực thành 

Một tôn đúng đắn cả hai bên lập và phá đều nhất trí với tôn y tiền trần và hậu trần, nhưng trái lại phải có sự bất đồng đối với tôn thể, tức đối với sự kết hợp của hai tôn y. 

Thí dụ: Trong tôn âm thanh là vô thường, cả hai bên lập và phá đều nhất trí về thế nào là âm thanh, thế nào là vô thường, thế nhưng phải không nhất trí về tôn thể “âm thanh là vô thường”. Nếu cả đối với tôn y và tôn thể đều nhất trí tất cả thì còn lập tôn mà làm chi.

Nếu lập tôn “Âm thanh là cái có thể nghe” thì cả hai bên đều công nhận ngay. Lập tôn như vậy là phạm lỗi tương phù cực thành. Tương phù là phù hợp với nhau. Tương phù cực thành là hoàn toàn phù hợp với nhau. Đã hoàn toàn phù hợp với nhau thì còn lập tôn để làm bàn cãi gì nữa.

II. Mười bốn lỗi của nhân

Mười bốn lỗi của nhân chia làm ba nhóm: 4 lỗi bất thành, 6 lỗi bất định và 4 lỗi tương vi. 

  1. Bốn lỗi bất thành
    1. Lưỡng câu bất thành 

Đó là trường hợp lập nhân mà cả hai bên lập và phá đều thấy không có quan hệ gì với tiền trần của tôn. 

Thí dụ:

Tôn: Âm thanh là vô thường

Nhân: Vì âm thanh có thể thấy.

Cả bên lập và phá đều không thừa nhận âm thanh là có thể thấy, như vậy phạm lỗi lưỡng câu bất thành.

Hay là:

Tôn: Con người là tối linh trong vạn vật.

Nhân: Vì người bay được trên không trung.

Trừ phi là cưỡi máy bay, còn thì người không thể bay được. Cả hai bên lập và phá đều không công nhận.

  1. Tùy nhất bất thành 

Lập một nhân mà một bên nhận, một bên không thì gọi là tùy nhất bất thành.

Thí dụ (Tín đồ Gia Tô nói với Phật tử):

Tôn: Người ác trong tương lai sẽ đau khổ.

Nhân: Vì bị Thần phạt 

Vì Phật không công nhận có chuyện Thần phát, mà chỉ công nhân tác dụng của luật nhân quả, mình gieo gió thì mình gặp bão v.v… Vì không công nhận chuyện Thần phạt, cho nên tín đồ Gia Tô lập nhận Thần phát là phạm lỗi tùy nhất bất thành.

c. Do dự bất thành 

Lập nhân là để có chứng cớ hay lý do vững vàng để bảo vệ tôn, thế nhưng bản thân cái nhân cũng không vững, do dự, bán tín bán nghi thì làm sao mà làm chứng cớ vững vàng cho tôn được.

Thí dụ:

Lập tôn: Đằng núi kia có lửa cháy
Nhân: Vì rằng nghi có khói bay lên.

Tuy nhiên, bản thân người nói cũng không chắc đó là khói hay là mù, là mây. Lập nhân như vậy là phạm lỗi do dự bất thành.

d. Sở y bất thành

Sở y chỉ cho tiền trần của tôn. Tiền trần của tôn cũng có tên gọi khác là sở biệt, còn hậu trần của tôn có tên gọi khác là năng biệt. Nếu phạm lỗi sở biệt bất cực thành thì hệ quả là nhân phạm lỗi sở y bất thành.

Thí dụ:

Lập tôn: Thần linh là công minh

Nhân: Vì xử phạt người rất đúng

Lập nhân như vậy là phạm lỗi sở biệt bất thành, nếu bên đối phương là Phật giáo vốn không công nhận có Thần linh xử phạt.

2. Sáu lỗi bất định của nhân

Sáu lỗi bất định của nhân, bắt nguồn từ chỗ thiếu một trong hai tướng của nhân là đồng phẩm định hữu tánh và dị phẩm biến vô tánh. Nhân vốn là môi giới liên hợp tôn và đồng phẩm, do đó nhân phải có ít nhiều liên hệ với đồng phẩm. Nhưng mặt khác, đối với dị phẩm lại không được có quan hệ nào.

  1. Cộng bất định

Có lỗi này khi phạm vi của nhân quá rộng, bao quát cả đồng phẩm và dị phẩm.

Thí dụ: 

Tôn: Cá voi và loài có vú.

Nhân: Vì là loại động vật.

Phạm vi nhân này quá rộng, vì cả đồng phẩm và dị phẩm loài động vật bao gồm có cả động vật có vú và không có vú. Với nhân rộng như vậy, không thể xác định cá voi là loài có vú hay không có vú.

    1. Bất cộng bất định

Trường hợp này ngược lại với trường hợp trên. Đây là trường hợp phạm vi của nhân quá hẹp, không bao gồm được cả đồng phẩm và dị phẩm.

Như lập tôn: Âm thanh là thường trú.

Nhân: Vì âm thanh có thể nghe được 
Nhưng ngoài âm thanh ra, có cái gì nghe được đâu, kể cả những cái đồng loại hay khác loại âm thanh?

    1. Đồng phần dị toàn bất định

Đây là trường hợp phạm vi của Nhân mà đồng phẩm chỉ có một ít, dị phẩm chiếm đa số.

Thí dụ lập tôn: Cô An là phụ nữ

Nhân: Vì không sanh con 

Đồng phẩm là phụ nữ có một số sinh con, một số không sinh con, nhưng dị phẩm là đàn ông thì hoàn toàn không sinh con.

Lập nhân như vậy, thì một phần đồng phẩm có, nhưng toàn bộ dị phẩm thì có. Dị phẩm mà có cái nhân đó là phạm sai lầm Dị phẩm (đàn ông) đều có cái nhân không sanh con. Do vậy mới nói là đồng phần dị toàn.

d. Dị phần đồng toàn bất định 

Đây là trường hợp phạm vi của Nhân mà đồng phẩm chiếm đa số, dị phẩm chỉ có một ít.

Lập tôn: Tâm là đàn ông

Nhân: vì không sanh con

Lập nhân như vậy sai ở chỗ là đồng phẩm tức đàn ông không ai sinh con, cho nên gọi là đồng toàn, nhưng đàn bà dị phẩm thì có một số sinh con, một số không sinh con, cho nên nói dị phần, nghĩa là có một phần dị phẩm (đàn bà) có sinh con. Dị phẩm (đàn bà) mà có một phần có cái nhân đó tức là phạm sai lầm.

    1. Câu phần bất định

Đây là trường hợp phạm vi của Nhân mà đồng phẩm, dị phẩm đều có mặt một số ít.

Như lập tôn: Trí là đàn ông

Nhân: Vì là giáo viên

Nhưng giáo viên có một số là đàn ông cũng có một số là đàn bà. Đồng phẩm hay dị phẩm đều có một phần là giáo viên và không phải giáo viên.

    1. Tương vi quyết định 

Đây là trường hợp phạm vi của Nhân không đúng tôn chỉ của Logic học hay Nhân Minh Luận là: Tự lợi, Lợi tha “Sanh Nhân, Liễu Nhân” và thiếu hẳn mục đích của Nhân minh là: Tự ngộ, Ngộ tha “Chơn hiện, Chơn tỷ, Chơn Lập, Chơn phá”. Chỉ vì: Tợ hiện – Tợ tỷ - Tợ lập - Tợ phá”. Nguồn gốc của lỗi.

Nhưng nhân của hai bên đưa ra đều có đầy đủ ba tướng (tức là ba điều kiện của một nhân đúng đắn), khiến cho không quyết định được bên nào đúng, bên nào sai, mà hình thành lỗi bất định. 

 3. Bốn lỗi tương vi của nhân

  1. Pháp tự tướng tương vi 

Pháp là hậu trần của tôn. Tự tướng là ý nghĩa bộc lộ rõ trên ngôn ngữ. Nếu ý nghĩa đó tương vi với nhân, tức mâu thuẫn với nhân, thì đó chính là lỗi này.

Thí dụ:

Lập tôn: ông Hữu không chết 

Nhân: Vì ông là một sanh vật 

Rõ ràng, sanh vật là có sanh có chết, làm sao có thể chứng minh ông Hữu là không chết được. Pháp “không chết” rõ ràng mâu thuẫn (tương vi) với nhân là một sanh vật.

  1. Pháp sai biệt tương vi 

Lỗi này do nhân mâu thuẫn với, tương vi với hậu trần của tôn. Đây là cái lỗi khó hiểu nhất trong các lỗi của Nhân minh học. Cái khó hiểu đó là do người lập luận muốn che dấu chủ đích của mình khi lập luận. 

Thí dụ: Tín đồ đạo Gia Tô muốn đề ra thuyết Thượng Đế sáng tạo vạn vật, nhưng lại không muốn nói Thượng Đế, vì nói Thượng Đế sẽ bị đối phương bác ngay. 

Lập tôn: Vạn vật phải do cái gì đó khác với vạn vật tạo ra.

Nhân: Vì bản thân mình không thể tự tạo ra bản thân được. 

Dụ: Như máy móc phải do người tạo ra. 

Thế nhưng, chính cái nhân đó lại cũng bị bên phản bác lợi dụng để bác bỏ thuyết Thượng Đế tạo thế.

Tôn: Vạn vật không thể do Thượng Đế tạo ra.

Nhân: Vì tự bản thân mình không thể tạo ra mình được 

Dụ: Như người chế tạo ra cơ khí

Ý là vạn vật là do Thượng Đế tạo ra, không thể tạo ra từ hư không được, mà là từ những cái có sẵn trong Thượng Đế. Và đã có sẵn thì tạo ra làm gì. Đây chính là lỗi tương vi mà các tôn giáo khác có thể dùng để bác thuyết Thượng Đế tạo thế.

c. Hữu pháp tự tướng tương vi 

Hữu pháp là tiền trần của tôn. Tự tướng là nghĩa suy diễn ra từ ngôn ngữ. Nếu đưa ra một nhân tướng vi với, tức mâu thuẫn với tiền trần trên mặt ngôn ngữ, tức phạm lỗi này. Chức năng của nhân là chứng minh giá trị của tôn được thành lập. Nếu dùng một cái nhân mâu thuẫn ngay với tiền trần của tôn thì làm sao chứng minh giá trị của tôn được.

Lập tôn: Cây cỏ là sinh vật

Nhân: Vì chúng ngủ ban đêm

Lập nhân như vậy rõ ràng là tương vi (ít nhất là một bộ phận) với số cây cỏ không có dấu hiệu gì là ngủ ban đêm cả.

d. Hữu pháp sai biệt tướng vi 

Như đã giải thích, hữu pháp là tiền trần của tôn. Sai biệt là hàm ý, hay ý nghĩa hàm chứa bên trong. Nếu lập một nhân mâu thuẫn với hàm ý bên trong của tiền trần của tôn, thì nhân đó phạm lỗi này.

Thí dụ:

Tôn: Con người làm gì cũng thành công.

Nhân: Vì con người là động vật lý trí.

Hàm ý của người lập tôn, khi nói con người là động vật chủ yếu có lý trí. Nhưng trên thực tế không phải như vậy, vì con người không phải chỉ có lý trí, mà còn có tình cảm, bản năng bẩm sinh v.v… Lập một nhân như vậy thật ra mâu thuẫn với tiền trần (con người) vốn phức tạp hơn nhiều.

III. Mười lỗi của Dụ

  1. Ý nghĩa của dụ

Thành phần thứ ba của năng lập là dụ, tức thí dụ. Có thể minh họa:

Tôn: Âm thanh là vô thường 

Nhân: Vì âm thanh là cái bị làm ra

Dụ: Như cái bình

Lấy cái bình làm ví dụ để chứng minh tôn: Âm thanh là vô thường. Vì cái bình cũng là vật bị làm ra cho nên là vô thường. Một ví dụ, muốn làm được chức năng chứng minh một tôn, thì phải có những điều kiện nhất định, chứ không thể đơn cử ví dụ một cách tùy tiện được.

     2. Hai loại của dụ

Trước hết, cần phân biệt dụ có hai loại là đồng dụ (đồng phẩm) và dị dụ (dị phẩm).

Tôn: Âm thanh là vô thường

Nhân: Vì âm thanh là vật bị làm ra

Dụ: như cái bình

Cái bình gọi là đồng dụ, không phải dị dụ. Dùng đồng dụ để chứng minh, thì Nhân minh học gọi là hợp tác pháp. Còn dùng dị dụ để chứng minh thì gọi là ly tác pháp. Cũng như đánh địch, có thể đánh trực diện, cũng có thể đánh từ trong lòng địch đánh ra. Cả hai mặt giáp công, địch nhất định thua. Đánh trực diện là hợp tác pháp. Đánh từ trong ra gọi là ly tác pháp.

Tôn: Âm thanh là vô thường

Nhân: Vì âm thanh là cái bị làm ra.

Đồng dụ: Mọi vật bị làm ra đều vô thường, như cái bình v.v…

Dị dụ: Mọi vật không phải là vô thường, đều không phải bị làm ra như hư không

Nói chung, sự phân biệt giữa hợp tác pháp và ly tác pháp đều ở nơi dụ, là thành phần thứ ba của năng lập.

3. Cách diễn đạt đồng dụ và dị dụ

Trước nhân sau tôn (đồng dụ) và trước tôn sau nhân (dị dụ). Với đồng dụ, thì trước nói nhân sau nói tôn. Tức là mọi vật có nhân như vậy (bị làm ra) thì sẽ có tôn (hậu trần của tôn) như vậy. Trong trường hợp nêu trên đây, thì hậu trần của tôn là vô thường. Đã là vật bị làm ra đều là vô thường như cái bình. 

Trái lại, trong trường hợp dị dụ, thì nói hậu trần của tôn trước. Phàm tất cả những cái gì không phải vô thường, đều không bị làm ra như hư không, đều không có cái nhân đó. Nói hậu trần của tôn trước, rồi mới nói tới nhân sau, tức là nói: Tất cả những gì là thường còn đều không bị làm ra như hư không.

Nói tóm lại, dụ của hợp tác pháp là dùng đồng phẩm của tôn, gọi là đồng dụ. Dụ của ly tác pháp là dùng dị phẩm của tôn, gọi là dị dụ. Bấy giờ, đơn cử một số ví dụ để minh họa rõ hơn đồng dụ và dị dụ:

Tôn: Đá kim cương có thể đốt cháy.

Nhân: Vì có chất than.

Đồng dụ: Phàm vật có chất than đều có thể bị đốt cháy, như củi, dầu.

Dị dụ: Phàm như cái gì không bị đốt cháy đều không có chất than, ví dụ đá.

Hợp tác pháp là dùng đồng dụ, để chứng minh chân lý của tôn. Như dùng củi, dầu để chứng minh kim cương có thể bị cháy vì là chất than.

Ly tác pháp là dùng dị dụ để chứng minh chân lý của tôn, như dùng đá, không phải chất than cho nên không cháy.

Một thí dụ khác như sau:

Tôn: con người không phải là không bị già, chết

Nhân: vì có cơ thể

Đồng dụ: Mọi vật có cơ thể đều già chết, như chim muông, động vật.

Dị dụ: Mọi cái không già chết đều không có cơ thể như nguyên tử vật chất.

(Riêng về ví dụ nguyên tử không bị hư hoại (già chết) vì không có cơ thể, thì không đúng nếu xét những phát hiện mới của vật lý hiện đại. Thật ra, nguyên tử cũng có cấu trúc (cơ thể) và nguyên tử cũng bị phá hủy, trong những điều kiện nhất định. Thậm chí, ngay cả những hạt cơ bản ở trong nội bộ của hạt nhân cũng có cấu trúc của chúng, cho nên cũng không phải là không bị hư hoại).

Trong các ví dụ trên, củi, dầu đều có thể bị cháy, đồng thời là những vật có chất than. Chim, động vật không phải là không chết, đồng thời cũng có cơ thể. Đá không cháy, vì là vật không có chất than. Nguyên tử vật chất không bị hoại, vì không có cơ thể. Như vậy, đồng dụ có đủ hai điều kiện, là đồng phẩm với tôn, và đồng phẩm với nhân. Cái bình đồng phẩm với tôn là vì vô thường, đồng phẩm với nhân vì là vật bị làm. Dị dụ cũng có hai điều kiện: một là dị phẩm với tôn, hai là dị phẩm với nhân. Trong ví dụ âm thanh vô thường, dị dụ là hư không là dị phẩm với tôn, vì hư không là thường trụ, vừa dị phẩm với nhân, vì hư không không bị làm ra. Có điều chú ý là: Nhân đồng phẩm bắt buộc có tôn đồng phẩm, vì là vật “sở tác”, tức bị làm ra, bắt buộc phải là vô thường, nhưng tôn đồng phẩm không nhất thiết là nhân đồng phẩm. Vì có những cái vô thường, như sấm, chớp, mưa nhưng không phải do người làm ra.

4. Mười lỗi của dụ

Có 10 lỗi của dụ, chia làm hai nhóm: 5 lỗi thuộc về đồng dụ và 5 lỗi thuộc về dị dụ.

        4.1. Năm lỗi về đồng dụ

a/ Năng lập bất thành

Năng lập là nhân, Tôn là sở lập, là cái được lập. Nhân dựa vào đồng dụ như là lực lượng hỗ trợ, để thành lập tôn. Nếu dụ không hỗ trợ được cho nhân trong việc thành lập tôn, thì dụ có lỗi. Đó là lỗi không hỗ trợ được cho nhân phát huy vai trò năng lập đối với tôn. 

Ví dụ:

Tôn: Làm người thì phải chết

Nhân: Vì người là động vật

Đồng dụ: Như cây cỏ.

Cây cỏ tất nhiên cũng chết, nghĩa là có thuộc tính của tôn (tiền trần) là đồng phẩm của tôn. Nhưng cây cỏ không phải là động vật, do đó không phải là đồng phẩm của nhân. Do đó không có hỗ trợ cho nhân thành lập tôn: Làm người thì phải chết. Lập dụ như vậy là phạm lỗi năng lập bất thành.

b/ Sở lập bất thành

Sở lập là hậu trần của tôn. Trong lỗi năng lập bất thành, đồng dụ chỉ là đồng phẩm với tôn (hậu trần của tôn), nhưng không phải đồng phẩm của nhân. Trong lỗi sở lập bất thành, đồng dụ là đồng phẩm của nhân, nhưng lại không phải là đồng phẩm của tôn.

Thí dụ:

Lập tôn: Âm thanh là thường trú

Nhân: Vì âm thanh không bị vật chất trở ngại

Đồng dụ: Mọi vật không bị vất chất trở ngại đều là thường trú, như tính giác (budhi)

Nhưng tính giác không phải đồng phẩm của tôn, vì tính giác cũng vô thường. Do đó mà lập đồng dụ như vậy là phạm lỗi sở lập bất thành.

c/ Câu bất thành

Lỗi này là do đồng dụ vừa không phải đồng phẩm của nhân, vừa không phải đồng phẩm của tôn.

Thí dụ: 

Lập tôn: Âm thanh là thường còn.

Nhân: Vì là không chất ngại.

Dụ: Cái gì không chất ngại đều là thường trú, như cái bình.

Dụ cái bình vừa là vô thường (không phải đồng phẩm của tôn) vừa có chất ngại (không phải đồng phẩm của nhân). Tức phạm lỗi câu bất thành.

d/ Vô hợp 

Đây là lỗi thiếu sự hòa hợp giữa nhân và hậu trần của tôn.

Thí dụ lập tôn: âm thanh là vô thường.

Nhân: Do âm thanh là cái bị làm ra.

Dụ: Ở nơi cái bình, thấy cả hai thuộc tính bị làm ra và vô thường.

Tức là trên bình diện ngôn ngữ, không kết hợp giữa nhân và hậu trần của tôn. Đáng lẽ phải nói: Mọi cái gì bị làm ra đều là vô thường như cái bình. Nói như vậy, mới có sự hòa hợp trên ngôn ngữ giữa nhân và hậu trần của tôn.

e/ Đảo hợp

Có hòa hợp, nhưng là hòa hợp đảo ngược. Hòa hợp đúng đắn là trước nhân sau tôn. Hòa hợp đảo ngược là trước tôn sau nhân.

Thí dụ:

Tôn: Làm người thì phải chết

Nhân: Vì người là động vật

Dụ: phàm là động vật thì phải chết, như con mèo v.v…

Đáng lẽ phải diễn đạt như trên mới đúng đắn, nhưng lại nói phàm những vật phải chết đều là động vật, như mèo. Diễn đạt như vậy tuy có hòa hợp nhưng là hòa hợp đảo ngược, vì đặt tôn trước nhân.

         4.2. Năm lỗi sau đây thuộc dị dụ

a/ Sở lập bất khiển 

Tôn là sở lập. Nhân là năng lập. Lập dị dụ mà có quan hệ với tôn là phạm lỗi sở lập bất khiển.

Thí dụ lập tôn: Âm thanh là thường trú

Nhân: vì âm thanh không có chất ngại.

Dị dụ: Mọi vật vô thường đều có chất ngại như cực vi.

Theo cả hai học phái Thanh Luận và Thắng Luận  đều thừa nhận cực vi là thường trú, do đó lập dị dụ như vậy là không loại bỏ được quan hệ giữa dị dụ với tôn, tức sở lập, tức phạm lỗi sở lập bất khiển (Cần hiểu tôn này lập ra trong bối cảnh có cuộc tranh cãi giữa hai học phái của Ấn Độ giáo là Thanh Luận và Thắng Luận).

b/ Năng lập bất khiến 

Năng lập chỉ cho nhân. Bất khiển có nghĩa là không bài trừ được, không loại trừ được. Từ chuyên môn trong sách Nhân minh là giả khiến. Các bạn đọc được chữ Hán cần hiểu nội dung chỉ có như vậy, không cần thắc mắc. Chức năng của dị dụ là bài trừ hay loại trừ.

Thí dụ:

Tôn: âm thanh là thường trú

Nhân: vì là không chất ngại.

Dị dụ: Tất cả những gì là vô thường đều có chất ngại, như nghiệp.

Đúng là cả hai phái Thắng Luận và Thanh Luận đều thừa nhận nghiệp là không chất ngại, do đó không phải là dị phẩm của nhân. Phạm lỗi năng lập bất khiển (năng lập là nhân).

c/ Câu bất khiển

Dị dụ trong trường hợp này phạm đồng thời cả hai lỗi năng lập bất khiển và sở lập bất khiển. Tức là dị dụ có quan hệ với cả hậu trần của tôn và nhân.

Lập tôn: Âm thanh là thường trú

Nhân: Vì không có chất ngại

Dị dụ: Như hư không

Lập hư không là dị dụ sẽ phạm cả hai lỗi, vừa quan hệ với hậu trần của tôn, vì hư không là trường trú, vừa quan hệ với nhân, vì hư không cũng là không chất ngại.
Ba lỗi trên của dị dụ đều quan hệ với cái gọi là tôn y, tức là hoặc là tiền trần hay hậu trần của tôn. Còn hai lỗi còn lại của dị dụ, thì quan hệ với tôn thể. Tôn thể, xin nhắc lại là sự kết hợp của hai tôn y.

d/ Bất ly

Hai lỗi cuối cùng của dị dụ là lỗi về diễn đạt, không phải lỗi về nghĩa.

Thí dụ: 

Tôn: Âm thanh là thường trú

Nhân: Vì không có chất ngại

Dị dụ: Mọi cái vô thường đều có chất ngại, như cái bình.

Diễn đạt dị dụ như trên là đúng, nhưng lại diễn đạt Ở nơi cái bình, có hai đặc điểm là vô thường và có chất ngại.

Qua diễn đạt như vậy, người ta không thấy được một cách minh bạch sự cách ly giữa dị dụ với tôn và nhân. Do đó, phạm lỗi bất ly.

e/ Đảo ly 

Có cách ly giữa dị dụ với tôn và nhân, nhưng sự cách ly đó bị diễn đạt một cách đảo ngược, đáng lẽ là trước tôn sau nhân thì lại đặt nhân trước tôn.

Như lập tôn: âm thanh là thường còn.

Nhân: vì không chất ngại

Dị dụ: cái gì có chất ngại đều là vô thường

Đáng lẽ lập dị dụ như sau mới không phạm lỗi: Cái gì vô thường đều có chất ngại, như cái bình v.v…

Chia sẻ
Bài viết liên quan