Nghiệp báo

Cập nhật: 15/10/2022

Giáo lý Nghiệp được đức Phật dạy bàng bạc trong các kinh tạng Nam truyền cũng như Bắc truyền. Như Trung Bộ kinh, Tăng Chi Bộ kinh, Kinh Pháp Cú,…

Nghiệp báo

 

BÀI 1

 

A. DẪN NHẬP

           Trong kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo, Đức Phật có dạy: “Tất cả chúng sanh vì tâm tưởng khác nhau, nên tạo nghiệp khác nhau, do đó mà có sự lưu chuyển trong các thú.” Chúng ta nhận thấy chúng sanh có tạo nghiệp thì có thọ báo và do duy tâm khác nhau mà có cái nhìn, cái suy nghĩ cũng khác nhau, rồi thể hiện qua lời nói, qua hành động hoặc thiện hoặc ác với muôn ngàn hình thức sai biệt.

Trong cuộc sống hiện tại của chúng ta đều do nghiệp quá khứ và hiện tại chi phối. Tạo nghiệp lành thì được vui, gieo nghiệp ác thì chịu khổ, chúng ta chỉ biết sợ khổ, cầu vui mà không biết tránh nghiệp ác, tạo nghiệp lành. Một khi nghiệp quả đã đến, dù muốn dù không, tất nhiên cũng phải chịu quả báo của nó. Bởi nó là kết quả do hành động của chính mình đã tạo. Mình làm, rồi mình chịu, đó là lẽ công bằng hợp lý của kiếp người.

Trong Kinh Trung Bộ, bài Kinh 135, (hoặc Kinh Tiểu Nghiệp Phân Biệt) Đức Phật dạy rằng: "Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sinh ra; nghiệp là quyến thuộc, là nơi nương tựa". Như thế, sự hiện hữu của mỗi con người đồng thời là sự hiện hữu của nghiệp thiện và bất thiện từ vô lượng kiếp quá khứ. Mỗi con người là điểm trung tâm của nghiệp; ngoài mỗi cá thể ấy sẽ không có bất kỳ một cái nghiệp nào được bàn đến.

B. NỘI DUNG

I. ĐỊNH NGHĨA

Nghiệp báo nói đủ là nghiệp quả báo ứng. Bởi vì nghiệp nhân chúng ta đã gây thì nghiệp quả phải đến. Sự báo đáp thù ứng cân xứng nhau giữa nghiệp nhân và nghiệp quả.

Nghiệp: tiếng Sanskrit gọi là karma, Pàli gọi là kamma, có nghĩa là hành vi, hành động có tác ý, hay hành động được phát sanh từ tâm. Nó được diễn ra trong nói năng hay suy nghĩ hằng ngày của chúng ta trong cuộc sống, trong khi làm việc, trong khi giao tiếp, ở tại nhà, ở tại sở làm hay bất cứ nơi đâu. Dù chỉ hành động một lần cũng thành nghiệp rồi, không nhất thiết phải lặp đi, lặp lại nhiều lần.

Nghiệp có thể chia ra ba tánh cách: lành, dữ, hoặc không lành không dữ (vô ký).

Theo đạo Phật, Nghiệp Lành nghĩa là những hành động, việc làm đem lại lợi ích, an lạc, hạnh phúc cho mình và cho người trong hiện tại cũng như trong tương lai. Nếu hành động đó chỉ đem lại lợi ích cho mình và đem lại đau khổ cho người thì cũng không thể gọi là nghiệp lành. Nghiệp Dữ, nghĩa là những hành động, việc làm đem lại đau khổ cho mình và cho người trong hiện tại cũng như trong tương lai. Vô ký nghĩa là những hành động không mang tính chất thiện và cũng không mang tính chất ác.

Báo: là chỉ cho sự báo ứng, đền trả một cách công bằng, không sai chạy, không tiêu mất. Sự thù đáp cân xứng giữa nghiệp nhân và nghiệp quả gọi là báo. Chúng ta có hành động lành hay dữ, kết quả của hành động ấy sẽ đến sớm hay đến muộn mà thôi, thì đó gọi là báo.

Do tính chất công năng và thời gian tạo nghiệp mà hình thành những chủng loại báo khác nhau. Cũng chính do có nhiều loại báo ứng vào những thời gian khác nhau, nên đã tạo ra sự hiểu lầm về luật nhân quả nghiệp báo đối với những người chưa thấu hiểu về đạo lý này. Họ trách móc là tại sao người ăn ở hiền lành mà gặp nhiều tai họa, kẻ ở ác lại gặp nhiều điều may mắn…. Để hiểu rõ vấn đề này, chúng ta cần phải tìm hiểu một số loại báo sau đây:

Hiện báo: là quả báo diễn ra ngay trong hiện tại, những hành động lành hay dữ do chúng ta gây ra trong đời này thì phải chịu quả báo ngay trong đời này. Hiện báo cũng gọi là thuận hiện nghiệp.

Sanh báo: là quả báo diễn ra về đời sau, nghĩa là hành động tốt xấu của ba nghiệp do chúng ta gây tạo trong đời này nhưng đến đời sau mới chịu quả báo, tùy theo nghiệp đã tạo từ trước đó. Sanh báo cũng gọi là thuận sanh nghiệp.

Hậu báo: Quả báo ở nhiều đời sau, nghĩa là tạo nghiệp ở đời này, nhưng qua nhiều đời sau mới nhận lấy quả báo, hoặc thiện hoặc ác tùy theo nghiệp đã tạo. Hậu báo cũng có nghĩa là tạo nghiệp trong những kiếp xa xưa, nhưng đến kiếp này mới nhận lấy quả báo tùy theo nghiệp đã tạo. Hậu báo gọi là Thuận Hậu Nghiệp. “Giả sử bá thiên kiếp, sở tác nghiệp bất vong, nhân duyên hội ngộ thời, quả báo hoàn tự thọ”. Như câu chuyện của Ngài Ngộ Đạt Quốc Sư…..

Tổng báo: nghĩa là Quả báo chung, như sự thái bình thịnh vượng của một xã hội hoặc cuộc chiến khốc liệt của một đất nước, là kết quả tốt xấu của một dân tộc qua một thời gian dài tạo nghiệp. Tổng báo còn có nghĩa là quả báo tổng hợp tất cả nghiệp thiện, ác trong quá khứ của mỗi con người.

Biệt báo: Quả báo riêng của mỗi người, tức là sự giàu, nghèo, đẹp, xấu, khổ, vui không ai giống ai. Chúng ta cũng thấy trong xã hội hiện nay cũng còn rất nhiều người thiếu trước hụt sau, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc là do trước kia họ đã tạo nghiệp xấu, thì họ phải nhận lấy.

Y báo: Quả báo phụ thuộc theo chánh báo, như đất đai nhà cửa, của cải, xóm làng, đất nước và quyến thuộc, bạn bè .v.v..

Chánh báo: Quả báo chính như thân tâm của con người, bao gồm tánh tình, đạo đức, tài năng, dung mạo, sức khỏe, tuổi thọ v.v.. Người tạo nghiệp thuần thiện thì y báo, chánh báo trang nghiêm, còn kẻ tạo nghiệp vừa thiện vừa ác thì người đó phải nhận lấy quả báo vừa hạnh phúc nhưng lại vừa đau khổ. Như một người biết bố thí cúng dường nhưng lại hay giết hại nhiều chúng sanh, cho nên quả báo của họ phải chịu là mặt dù có cuộc sống giàu sang nhưng nhiều bệnh tật và tuổi thọ ngắn, do đó mà y báo chánh báo không được hoàn hảo.

Hoa báo: Từ ngữ này chỉ sự báo ứng tạm thời và xảy ra ngay sau khi tạo nghiệp thiện hoặc ác. Sau đó người ấy mới nhận quả báo chính ở tương lai.

II. TỪ ĐÂU TẠO THÀNH NGHIỆP?

Nếu nghiệp phát khởi từ vô minh, ái dục, chấp thủ thì sẽ đưa đến đau khổ. Và nếu nghiệp phát khởi từ lòng từ bi, vị tha, bình đẳng thì sẽ đưa đến hạnh phúc, an lạc. Nghiệp do thân hành động, khẩu nói năng và ý suy nghĩ, nên thường được gọi là tam nghiệp gồm có: thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp. Ý nghiệp là mấu chốt điều khiển thân, khẩu hành động tạo nghiệp.

Thân nghiệp: là những thói quen hành động, do thân tạo tác hằng ngày. Như có người thích giúp đỡ kẻ khác, làm việc phước thiện, làm việc xã hội; có người thích đi chùa, lễ Phật, tụng kinh; cũng có người luôn thích hút thuốc, uống rượu, bài bạc, giết hại sinh mạng chúng sanh….

Khẩu nghiệp: là những điều mình thường nói ra hằng ngày, có khi ngọt ngào dễ nghe, có khi gây xúc não đến người khác…Cổ nhơn có dạy:

Lời nói chẳng mất tiền mua.

Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.

Có người luôn luôn thích nói chuyện đạo lý, nói chuyện ích lợi cho người; có người thường hay thuyết pháp, tụng kinh, niệm Phật; có người luôn nói lời hòa nhã, êm ái, dịu dàng, ai ai cũng thích nghe, thích gặp mặt, thích trò chuyện; có người thốt xong một lời, người nghe phải lên cơn tim ngất xỉu, hay giã từ luôn cõi đời; có người thốt xong một lời, người khác phải đi tù, hoặc cãi vã, nghi ngờ lẫn nhau, tiêu tan hạnh phúc.

Do đó, chúng ta mới biết khẩu nghiệp nặng nề biết bao, bởi lời nói có khả năng hại người còn hơn cả vũ khí.

Những người biết tu tâm dưỡng tánh rất dè dặt với khẩu nghiệp, không dám phát ngôn bừa bãi, luôn nhớ lời cổ nhơn dạy: “Lời nói là bạc, im lặng là vàng.” Có khi nói năng để truyền bá Chánh Pháp, lời nói đầy pháp vị, nói lời chuyên chở đạo lý.

Ý nghiệp: là quan trọng hơn cả. Chính ý nghiệp chủ động điều khiển thân và khẩu hành động tạo nghiệp. Cho ví dụ thực tế…..

 Nghiệp từ thân, miệng, ý chúng ta tạo nên. Bởi thân, miệng, ý chúng ta làm lành, nói lành, nghĩ lành nên tạo thành nghiệp lành. Thân, miệng, ý chúng ta làm ác, nói ác, nghĩ ác tạo thành nghiệp dữ. Thế nên, chúng ta chủ nhân tạo nghiệp cũng chính chúng ta là chủ nhân thọ báo. Đến đây, chúng ta hãnh diện đã thoát khỏi mọi quyền lực thiêng liêng ban họa giáng phước. Hiểu rõ luật nghiệp báo, chúng ta sẽ phá trừ mê tín dị đoan, và không tin vào thần thánh, hay giao phó cuộc đời mình cho một đấng quyền năng nào.

III. PHÂN LOẠI NGHIỆP

1. Theo năng lực

Năng lực của nghiệp được hình thành theo từng loại nghiệp khác nhau trong một tiến trình tâm lý rồi đưa đến sự hình thành các đặc tính của nghiệp. Gồm có những loại như sau:

a) Tập quán nghiệp: Là nghiệp được huân tập bởi một thói quen trong đời sống hàng ngày. Có thể đó là thói quen thuộc tâm lý, hành vi, cách ứng xử v.v...Ví dụ: hút thuốc, đánh bài...

Tập quán ở đây cũng có thể là nghiệp của từng vùng miền, chúng ta bị ảnh hưởng bởi những tập quán của vùng miền đó, như có quốc gia dùng người để tế thần, hoặc hành động đánh bắt cá ở những vùng biển…

b) Tích lũy nghiệp: Là các nghiệp được tích lũy dần dần theo từng năm từng tháng. Thân thể của chúng ta cũng là một tích lũy nghiệp từ vô thỉ cho đến ngày nay, trong thân đó chứa đựng nghiệp ác lẫn nghiệp thiện.

c) Cực trọng nghiệp: Là các nghiệp gây ấn tượng xấu ác cực mạnh và sâu trong tâm lý của con người như phạm các tội ngũ nghịch là giết cha, giết mẹ…

Tuy nhiên, theo HT. Thích Thiện Hoa, trong tác phẩm Tám Quyển Sách Quý, và theo học giả Đoàn Trung Còn trong bộ Phật Học Từ Điển, thì cực trọng nghiệp có 2 tính chất đó là: Thiện và ác.

- Do những hành động tạo tác thuần thiện, như tu tập Thập Thiện thanh tịnh. Người tạo nghiệp thiện, khi lâm chung, liền được sanh vào cảnh giới an lành.

- Do tạo những tội cực ác như giết cha, giết mẹ, giết A La Hán, làm thân Phật ra máu, chia rẽ tăng đoàn…Kẻ tạo tội ác cực mạnh, khi chết tức khắc đọa vào địa ngục vô gián. Vậy, Cực trọng nghiệp cũng bao gồm cả ý nghĩa thiện và ác, Nhưng khi đề cập đến loại nghiệp này, người ta thường liên tưởng đến ác nghiệp.

d) Cận tử nghiệp: là nghiệp lúc sắp chết hay những sức mạnh tâm lý của con người trước lúc tắt thở. Nghiệp này cực kỳ hệ trọng trong việc hướng dẫn nghiệp thức đi tái sinh. Những tư tưởng cuối cùng của người chết sẽ tạo nên một cận tử nghiệp (thiện hoặc bất thiện).

Một người có thể suốt đời làm ác, nhưng trước lúc tắt thở, nỗ lực sinh khởi về thiện pháp, về những điều thiện trong đời, và nhờ ý thức đó có thể tái sinh vào cõi tốt đẹp (tương tự như vậy đối với các trường hợp ngược lại). Từ đó, qua những kinh nghiệm cận tử, chúng ta cần huân tập các thiện nghiệp trong đời sống của mình để tạo thành một sức mạnh, đoạn trừ các ác nghiệp ngay trong đời sống hàng ngày và cả đến giờ phút lâm chung.

2. Theo tiến trình

a) Định nghiệp: là hành động hoặc lành hoặc dữ có cộng tác với ý thức tạo thành nghiệp quyết định. Nghiệp đã tạo sẽ dẫn đến quả báo định sẵn, không thể thay đổi. Do tính chất của nghiệp quá mãnh liệt, hoặc do quả báo đã chín muồi. Ví như một ứng cử viên được hội đồng bầu cử công bố kết quả rồi, hoặc đậu hoặc rớt. Lại ví như một nghi can, tòa đã tuyên án, hoặc có tội hoặc vô tội.

b) Bất định nghiệp: là hành động hoặc lành hoặc dữ không cộng tác với ý thức nên thành nghiệp không quyết định. Nghiệp dẫn đến quả báo không định trước, do nghiệp còn non yếu, thiện ác lẫn lộn, hoặc chưa đủ các thuận duyên để hình thành quả báo. Ví như việc bầu cử còn đang diễn tiến, chưa có kết quả kiểm phiếu. Hoặc nghi can còn trong vòng điều tra xét hỏi chưa định tội.

c) Biệt nghiệp: Nghiệp riêng của mỗi người, tự mình tạo nghiệp cho mình, đây là nguyên nhân hình thành tư cách và hoàn cảnh riêng biệt của mỗi người. Trong thực tế xã hội con người tuy đông nhưng không ai giống ai cả. Như trong kinh “Thập Thiện Nghiệp Đạo”, Đức Phật dạy rằng: “Này Long Vương! Ông có thấy các vị trong Pháp hội này và các loại ở trong biển cả, hình sắc chủng loại mỗi mỗi khác nhau không? Tất cả như thế đều do tâm tạo thiện hoặc ác nơi Thân Nghiệp, Ngữ Nghiệp và Ý Nghiệp của mỗi người mà ra”.

d) Cộng nghiệp: Đó là nghiệp chung của tập thể, của nhiều người tạo nghiệp giống nhau. Đây là nguyên nhân dẫn đến tổng báo của một tập thể, một dân tộc, một chủng loại chúng sanh.

3. Theo tính chất

Khi nói đến nghiệp báo là nói đến tiến trình nhân - quả của nghiệp. Theo giáo lý về nghiệp, một nhân không thể tạo thành một quả, mà phải có các duyên phụ trợ. Cho nên, phải nói đủ là nhân - duyên - quả. Duyên là các nhân phụ làm cho nhân chính thành quả; như nước, phân, đất, sự cần mẫn chăm bón của con người (là các duyên) làm cho hạt giống thành tựu nảy nở. Như câu chuyện của Ngộ Đạt Quốc Sư, mặc dù kiếp trước có ân oán với Triệu Thố, nhưng trải qua 10 kiếp tu hành tinh tấn, cho nên sự báo ứng không đến được, nhân do lòng tham đắm vào chiếc ghế trầm hương mà phải chịu quả báo mụt ghẻ hình mặt người. Vậy lòng tham đó chính là duyên để đưa nghiệp đi đến kết quả vậy. Vì thế, khi tìm hiểu về quả dị thục (sự chín muồi) của nghiệp, ta phải tìm hiểu về 3 đặc tính sau:

a) Dị thời nhi thục: Thời gian chín muồi của nghiệp quả khác với thời gian tạo nghiệp (nghiệp nhân). Ví dụ như trái xoài, thời điểm khi sinh ra cho tới khi nó chín muồi là khác nhau (khác thời mà chín).

b) Dị loại nhi thục: Kết quả bị biến chất (dị loại) so với thời gian mới tạo nghiệp. Ví dụ, trái xoài khi nhỏ thì chua nhưng khi chín thì ngọt (biến chất rồi mới chín).

c) Biến dị nhi thục: Kết quả bị biến thái và biến tướng (biến dị) so với thời gian mới tạo nghiệp. Ví dụ trái xoài non thì màu xanh, đến khi chín thì màu vàng.

Một số danh từ về nghiệp cần biết

- Bạch nghiệp (nghiệp trắng): là các nghiệp thiện
- Hắc nghiệp (nghiệp đen): là các nghiệp ác
- Phi hắc bạch nghiệp: các hành động duy tác, không có sự cộng tác của tâm ý.

- Thánh nghiệp: là nghiệp đưa đến Thánh đạo
- Chướng nghiệp: nghiệp cản trở sự kết thành của quả

IV. THÁI ĐỘ TÂM LÝ TIẾP THỌ NGHIỆP

Nghiệp lực không có hình tướng, không ai có thể trông thấy được, nhưng nó có một tác dụng vô cùng mãnh liệt. Đây là một vấn đề vô cùng quan trọng trong giáo lý nghiệp báo. Chúng ta cần phải tiếp thọ nghiệp như thế nào để không bị đau khổ. Vì mỗi người đều có cái nghiệp riêng do vô minh, ái thủ đã tạo nên, do đó đương nhiên phải đối diện với quả báo của mình. Sự trốn tránh nghiệp lực là điều vô ích. Cụ Nguyễn Du, trong Truyện Kiều đã nói rằng:

"Đã mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa
Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài"

Vì thế, vấn đề quan trọng được đặt ra đối với người đang trên đường tu tập không phải là nghiệp mà chính là thái độ tâm lý tiếp thọ nghiệp. Tâm lý và định lực của người tu hành giải thoát sẽ hóa giải mọi nghiệp của chính họ. Như một nhà sư vô cớ bị tù, ở trong tù mà lòng thì vô cùng bình an, không hề dao động; nghĩa là nhà sư ấy không còn bị nghiệp lực chi phối nữa.

Cùng một hành động xảy ra đối với hai người nhưng thái độ thọ nhận hành động (nghiệp) thì hoàn toàn khác nhau. Nếu người biết tu hành, ý thức về nghiệp của mình đã gây tạo, thì họ sẽ thọ nhận nghiệp một cách hoan hỷ và vui vẻ. Còn người không biết tu tập thì họ sẽ rất đau khổ khi thọ nhận nghiệp quả của mình.

        Như vậy, trong vấn đề tu tập chuyển nghiệp, chúng ta cũng đừng quên trả nghiệp, vì trả nghiệp chính là động lực cân bằng của cuộc sống. Người tu học Phật không có quyền phủ nhận hay chạy trốn trước sự thật nghiệp lực của mình. Nghiệp cũng giống như trả nợ tiền bạc, trả xong thì cảm thấy nhẹ nhàng để cuộc sống mới tốt đẹp hơn. Vì thế, chúng ta sẵn sàng vui lòng trả nghiệp.

Do đó, đối với nghiệp, thái độ tâm lý của người tiếp thọ thì quan trọng hơn là chính cái nghiệp ấy. Chúng ta hiên ngang thọ nhận tất cả quả khổ vui, mà không có một lời oán hờn than trách, bởi nó là kết quả do chính mình gây tạo. Chúng ta phải tự do quyết định sự lựa chọn đời sống của mình, phải khôn ngoan biết chọn lựa nghiệp nhân nào để đưa đến một đời sống hạnh phúc, an lạc. Đây là sự trưởng thành, khi rõ nghiệp từ đâu có.

V. PHƯƠNG PHÁP TU TẬP ĐỂ DỪNG NGHIỆP VÀ CHUYỂN NGHIỆP

Giáo lý của đức Phật nói ra không phải là một giáo lý suông, mà giáo lý được thể hiện qua Văn – Tư – Tu. Chúng ta đã biết rằng chính ba nghiệp thân, khẩu, ý là động cơ dẫn dắt con người vào vòng trầm luân sanh tử luân hồi nhiều đời nhiều kiếp. Cho nên, muốn thoát ly sanh tử luân hồi, chúng ta phải biết dừng nghiệp và chuyển nghiệp. Nghĩa là chúng ta phải dừng tất cả những nghiệp ác, nghiệp bất thiện, từ thân, khẩu, ý của mình, chuyển ba nghiệp thân, khẩu, ý bất thiện, thành ba nghiệp thiện lành. Ðó chính là trọng tâm tu hành của đạo Phật, chứ không phải những hình tướng bên ngoài, những nghi lễ rườm rà, những van xin cầu khẩn.

Như trước đây chúng ta hay sát sanh, bây giờ không sát sanh nữa mà cần phải phóng sanh; lúc trước hay tham lam, bỏn xẻn, lấy cắp đồ của người, bây giờ phải biết bố thí, cúng dường…..Một phần dứt nghiệp ác và một phần tăng trưởng điều thiện.

 Con người khi chết đi, thân xác, danh vọng, của cải, thân bằng quyến thuộc, tất cả mọi thứ đều phải bỏ lại thế gian, chỉ mang theo cái "nghiệp báo" tái sanh kiếp sau. Chính cái nghiệp báo này là nguyên nhân làm cho chúng ta sung sướng hay đau khổ. Khi biết được điều đó, liễu tri được điều đó, giác ngộ được điều đó, chúng ta cần phải tìm cách dừng nghiệp, tìm cách chuyển ba nghiệp bất thiện thành ba nghiệp thiện.

Chúng ta phải luôn luôn nhận thấy rõ ràng tính chất thiện ác trong mọi việc làm, trong mọi lời nói và trong cả những suy nghĩ của mình. Nếu như việc ác thì phải ngăn chặn và tiêu diệt, nếu như việc thiện thì phải cố gắng thực hành và làm tăng trưởng chúng. Có được tư tưởng dứt khoát và dụng công như thế, hiện tiền sẽ được an lạc và hạnh phúc.

1. Chuyển hóa nội tâm

Nghiệp do chúng ta tạo ra, thì chúng ta phải biết chuyển đổi. Tuy rằng đứng về mặt nhân quả mà nói, thì gieo nhân gì gặt quả đó, tạo nghiệp gì lãnh nghiệp đó. Thế nhưng, nghiệp không phải là pháp cố định, mà do duyên sanh, tùy thuộc vào tâm ý của con người, nên có thể chuyển đổi.

Với người muốn chuyển nghiệp, trước hết phải chuyển hóa từ nội tâm. Sau đó hành động sẽ chuyển theo. Kinh Trung A Hàm, Phẩm Nghiệp Tương Ưng, đức Phật dạy: “Người gây nhân bất thiện, trước hoặc sau họ biết tu thân, tu giới, tu tâm, tu tuệ thì quả sẽ đổi thay. Nếu gây nhân bất thiện mà không biết tu thân, tu giới, tu tâm, tu tuệ thì gieo nhân nào sẽ thọ quả nấy”.

         Như vậy, gây nhân ác mà không biết tu thì nghiệp không thể nào chuyển được. Nếu gây nhân ác mà biết tu, thì sẽ chuyển nghiệp nặng thành nghiệp nhẹ. Lại nữa, đối với người Phật tử, việc tu tập trước hết phải thấy được tội lỗi mình gây ra để nỗ lực sám hối. Phật dạy: “Có hai hạng người mạnh mẽ nhất. Một là người không tạo tội. Hai là người tạo tội mà biết ăn năn sám hối.” Sám hối là phương pháp đặc thù và có hiệu quả rất cao trong việc chuyển nghiệp.

            2. Phương pháp Sám hối

Nghiệp từ nơi tâm mà phát khởi thì cũng từ nơi tâm mà diệt trừ. Kinh dạy:               

“Sám giả sám kỳ tiền khiên

Hối giả hối kỳ hậu quá”.

  Sám: là ăn năn các việc ác đã làm, thề xin chừa bỏ, không dám tái phạm. Hối: là hối cải. Những điều ác chưa làm, sau này xin thề nguyện không bao giờ làm nữa. Bao nhiêu điều thiện xin làm hết.

Ðức Phật dạy:

Tội tùng tâm khởi tương tâm sám.

Tâm nhược diệt thời tội diệt vong.

Tội vong tâm diệt lưỡng câu không.

Thị tắc danh vi chơn sám hối.

Một người tạo tội biết nỗ lực ăn năn thành tâm sám hối, chừa bỏ thì nghiệp nặng có thể chuyển đổi thành nghiệp nhẹ. Như trường hợp của Hoàng Hậu Hy Thị, vì tạo nghiệp độc ác với mọi người và hủy báng Tam Bảo, khi chết bị đọa làm thân rắn mãng xà, nên về báo mộng cho vua Lương võ Đế để tìm phương cứu vớt. Vua thỉnh các vị cao Tăng lập đàn sám hối, nhà vua hết lòng lễ bái sám hối cho Hoàng hậu, nhờ đó tâm thức Hoàng hậu được chuyển đổi, hướng tâm niệm về đường lành, thoát được nghiệp khổ, sanh lên thiên giới. Cho nên đối với một người tạo nghiệp, phải ý thức chuyển hóa từ tâm và thực hành phương pháp sám hối, thì nghiệp mới được chuyển đổi.

C. KẾT LUẬN

Đức Phật dạy rằng: "Không ai làm cho ta nhiễm ô, cũng không ai làm cho ta trong sạch; trong sạch hay ô nhiễm là tự nơi ta, chỉ có ta làm cho ta ô nhiễm, chỉ có ta làm cho ta trong sạch". Lời dạy trên đã mở ra cho con người một hướng đi rất chủ động trong việc tạo nên một đời sống an lạc giải thoát ngay tại cuộc đời này.

Đã có tạo nghiệp thì có quả báo, nghiệp báo nó làm nhân quả cho nhau, ảnh hưởng lẫn nhau và thúc đẩy chúng sanh đi mãi trong sanh tử luân hồi, lên xuống trong ba cõi sáu đường. Chúng ta muốn an lạc, hạnh phúc thì phải thấu hiểu luật nghiệp báo và áp dụng luật nghiệp báo vào trong đời sống hằng ngày, thì phải tránh làm những việc ác, nên làm những điều thiện.

Thuyết Nghiệp Báo đã mang lại cho con người niềm an ủi, nguồn hy vọng, tánh tự tin và đạo đức can đảm. Niềm tin nơi Nghiệp Báo “làm tăng giá trị của sự tinh tấn, và kích thích lòng nhiệt thành”, khiến con người luôn luôn có lòng tốt, khoan dung và biết giúp đỡ kẻ khác. Cũng do niềm tin ở Nghiệp Báo đã nhắc nhở con người tránh điều ác, làm việc lành để gặp quả tốt; mà không chút sợ hãi sẽ bị trừng phạt hay cám dỗ bởi bất cứ sự ban thưởng nào.

Đối với người học Phật, tự mình phải thực hành đạo lý nghiệp báo vào cuộc sống và đem đạo lý này đến với mọi người, giúp cho họ hiểu và tu tập để được an lạc và thăng hoa đời sống.

Chư Tổ thường dạy, nếu giữ gìn ba nghiệp được thanh tịnh thì cùng với chư Phật trong ba đời mười phương luôn sống trong an lành, tự tại và an lạc.

Và:

Thân nên lánh ác làm lành

Khẩu dè lời nói, ý ngừa nghĩ suy.

Hiện đời phước huệ từ bi

Mai sau được quả Vô vi Niết bàn.

 

BÀI 2

A. DẪN NHẬP

          Quán xét cuộc đời, trong mỗi chúng ta không ai mà không đặt câu hỏi, tại sao trên thế gian này có người sanh ra được hưởng giàu sang phú quý, trong khi ấy kẻ khác lại phải sống cảnh thiếu thốn, cơ hàn, khốn khổ? Tại sao người kia thông minh xuất chúng mà kẻ khác lại ngu muội tối tăm? Tại sao người này sanh ra với bẩm tánh hiền lương, còn lại kẻ nọ sẵn nết hung dữ từ khi lọt lòng mẹ. Sự khác biệt đó do ai bày đặt ra mà bất công như vậy, do thượng đế ư, do ngẫu nhiên hay do định mệnh? Người có trí không thể chấp nhận những lí do ấy và cũng không tin nơi sự may rủi mù quáng. Chắc hẳn có một lý do nào đó hợp với quy luật của sự tồn tại, là sự thật của cuộc đời, là chân lý khách quan chi phối và tạo ra sự khác biệt ấy trong từng con người cụ thể.

Bồ-tát Tất-đạt-đa trải qua 49 ngày đêm thiền định dưới cội Bồ-đề, sau khi chứng đắc Tam minh, với Thiên nhãn thuần túy, siêu nhân, Bồ-tát thấy rõ ràng: “Chúng sanh, kẻ hạ liệt, người cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh, đều do nghiệp của họ”. Để làm sáng tỏ điều này, chúng ta cùng tìm hiểu giáo lý Nghiệp báo, một giáo lý giải thích về những khía cạnh trong đời sống con người, sự khác biệt giữa người và người, hay giữa các cộng đồng của nhân loại trên thế gian.

B. NỘI DUNG

I. ĐỊNH NGHĨA VÀ XUẤT XỨ

1. Định nghĩa:

Chữ Nghiệp dịch từ Karma, có nghĩa là hành động có tác ý của thân, khẩu, ý. Tư tưởng, lời nói hay việc làm thường do ý muốn thúc đẩy, làm động lực cho hành động, Phật giáo gọi ý muốn thúc đẩy ấy là Tác ý. Tất cả những hành động có tác ý, dầu biểu hiện do thân, khẩu, hay ý, dù thiện hay bất thiện đều tạo nghiệp. Những hành động không cố ý, không có chủ tâm, mặc dầu đã biểu hiện bằng lời nói hay việc làm đều không tạo nghiệp. Như vậy, sự cố ý hay tác ý là yếu tố quan trọng để tạo nghiệp.

Theo luật nhân quả, hễ có nhân thì có quả và quả lại làm nhân để tạo ra quả khác. Nhân quả đắp đổi nhau và tiếp nối mãi không dứt. Trong phạm vi con người, bất luận tạo ra hành động nào, bằng thân, khẩu, ý đều gọi là nghiệp. Nghiệp nhân ấy được gieo vào ruộng tiềm thức và trưởng thành dần, khi đủ cơ duyên thì nó kết thành quả phát lộ ra bên ngoài thì gọi là nghiệp quả hay nghiệp báo. Và nghiệp quả này lại gieo vào tàng thức để làm nghiệp nhân cho nghiệp quả về sau. Tàng thức chất chứa, nuôi dưỡng tất cả những nghiệp nhân và quả ấy. Nó sẽ trở thành nghiệp thiện nếu những nghiệp nhân và quả của người hành động đều thiện; trở thành nghiệp ác nếu nghiệp nhân và quả của người ấy đều ác; hay nửa thiện nửa ác nếu nghiệp nhân và quả của người ấy có thiện có ác. Cũng như một miếng đất, nếu ta gieo bắp thì sẽ có một miếng đất toàn bắp, nếu ta gieo đậu thì sẽ có một miếng đất toàn đậu, còn nếu khi ta vừa trồng bắp, vừa trồng đậu thì ta sẽ có một miếng đất bắp đậu lẫn lộn.

Như thế, nói đến nghiệp là nói đến nghiệp thiện, nghiệp ác và nghiệp vô ký. Nghiệp do vô minh sanh ra thì quả báo sẽ là đau khổ. Nếu nghiệp được bắt nguồn từ trí tuệ chơn như thì nghiệp báo sẽ là cảnh giới an lành. Cho thấy, sự tương quan đưa đến nghiệp báo đều dựa trên cơ sở nhân quả rõ rệt. Tăng Chi Bộ Kinh, III, Thích Minh Châu dịch,  VNCPHVN, 1996, tr 415, Đức Phật dạy: “Này các thầy Tỳ-kheo, Như Lai nói rằng, tác ý là nghiệp. Do có ý muốn mới có hành động bằng thân, khẩu hay ý.” Tác ý bắt nguồn sâu xa trong vô minh và ái dục. Còn vô minh, còn ái dục, còn ham muốn thì mọi hành động, lời nói, tư tưởng đều là nghiệp. Và trong sự báo ứng của nghiệp thì tâm thức con người là yếu tố quan trọng. Như trong kinh Pháp cú 1 và 2, đức Phật dạy:

“Ý dẫn đầu các pháp

Ý làm chủ tạo tác

Nếu với ý ô nhiễm

Nói lên hay hành động

Khổ não bước theo sau

Như xe chân vật kéo

 

Ý dẫn đầu các pháp

Ý làm chủ tạo tác

Nếu với ý thanh tịnh

An lạc bước theo sau

Như bóng không rời hình.”

Đối với chư Phật và chư vị A-la-hán đã diệt tận vô minh và ái dục là hai nguồn gốc của nghiệp, các Ngài không còn tạo nghiệp nữa. Các Ngài đã vượt ra khỏi thiện và ác, chính vì vậy, hành động của Chư Phật và A-la-hán gọi là Duy tác. Như vậy, tất cả những hành động có tác ý, dù biểu hiện bằng thân, khẩu, hay ý, đều tạo Nghiệp. Nghiệp được hiểu một cách đầy đủ và trọn vẹn đó chính là nghiệp báo. Trong đó nghiệp là nhân, báo là quả, có nhân thì sẽ có quả.

2. Xuất Xứ

Giáo lý Nghiệp được đức Phật dạy bàng bạc trong các kinh tạng Nam truyền cũng như Bắc truyền. Như Trung Bộ kinh, Tăng Chi Bộ kinh, Kinh Pháp Cú,… Được dạy và phân tích rõ ràng nhất là trong kinh Tiểu Nghiệp Phân Biệt và Đại Nghiệp Phân Biệt của Trung Bộ kinh.

II. PHÂN LOẠI NGHIỆP

1. Theo tên gọi

Khi xét đến Nghiệp của một con người là xét đến thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp. Ngoài ba nghiệp này, không còn một loại nghiệp nào khác. Tuy nhiên, nghiệp có những tính chất và chức năng khác nhau nên chúng được phân làm nhiều loại và có nhiều tên gọi khác nhau. Theo trình tự, dựa trên tên gọi, trước hết giáo lý về nghiệp được chia thành hai loại là nghiệp thiện và nghiệp ác, hay bạch nghiệp và hắc nghiệp.

a. Nghiệp thiện hay bạch nghiệp

Là tư duy và hành động về các điều lành như thực hành Ngũ giới hoặc Thập thiện giới mà chiêu cảm đến đời sống an lành. Ví dụ, phóng sanh được trường thọ, bố thí được giàu sang.

b. Nghiệp ác hay hắc nghiệp

Là tư duy và hành động về các điều ác, như thực hành những điều trái ngược với Ngũ giới, Thập thiện giới, gây đau khổ cho mình và kẻ khác, từ đó chiêu cảm cái khổ quả do hành động tư duy bất thiện đó.

Cũng căn cứ trên phạm trù thiện và ác, Nghiệp được chia thành hai loại nữa:

c. Thiện ác hòa lẫn (Bạch hắc hòa lẫn)

Nghiệp này được biểu hiện trên cơ sở quá khứ và hiện tại, cho kết quả có thể trong hiện tại hoặc tương lai.

Ví dụ: Nhờ có bố thí nên được giàu sang, nhưng đồng thời lại bất hiếu với cha mẹ. Cho nên, tuy sống trong cảnh giàu sang, sung sướng mà lại bị quả báo con cháu bất hiếu gây ra sự khổ não, buồn bực.

 

d. Không thiện không ác (Không bạch không hắc)

Tức là nghiệp vô lậu của người đã đắc đạo giải thoát.

Vậy Nghiệp là một di sản, là kết quả trực tiếp của một ý nghĩ, hành vi của chúng ta thực hiện kiếp trước hoặc ngay hiện tại, thân phận của mỗi con người chính là do hành động và ý nghĩ tạo nên.

Nghiệp còn là biểu thị của tinh thần nhân quả, mà Nghiệp là nguyên nhân, Báo là kết quả. Khi xét đến quá trình tạo tác, tư duy và hành động để hình thành nên nghiệp thiện hay nghiệp ác, thì chúng ta chia nghiệp thành hai loại, đó là nghiệp nhân và nghiệp quả.

Nghiệp nhân là nguyên nhân tạo ra nghiệp, tức là những tư duy, hành động tạo nghiệp nhưng chưa đưa đến một kết quả.

Nghiệp quả là những tư duy, hành động tạo tác sau một tiến trình, một thời gian đã tạo thành nghiệp, còn gọi là quả, nghiệp báo hay quả dị thục.

Trong thực tế, khi nói đến nghiệp, con người thường chú trọng đến nghiệp báo (nghiệp quả) hơn là nghiệp nhân. Và đây là chỗ thiếu sót của chúng sanh khi đối diện với nghiệp. Và cũng chính điều này khiến cho chúng sanh quan tâm đến quả báo hơn là gieo nhân. Thực tế, nguyên nhân và kết quả mà ta gọi là nghiệp báo tương quan như bóng theo hình, xảy ra từng lúc hoặc ở kiếp lai sinh. Sự báo ứng này vĩnh viễn không phải là do sự trừng phạt của đấng siêu nhiên nào. Đức Thế Tôn đã từng dạy, nghiệp báo không phải quyền năng để bảo vệ kẻ giàu sang hay an ủi kẻ nghèo khổ, mà Ngài chỉ cho chúng ta biết rằng, từng cá nhân và tất cả mọi người có đủ năng lực, tự do để mà tạo dựng một “cái nghiệp” cho mình, có thể hoán đổi đời sống xấu hoặc tốt.

Đó là xét theo tên gọi, nếu xét theo tiến trình từ nhân đến quả, người ta lại chia thành hai loại nghiệp, định nghiệp và bất định nghiệp.

2. Theo tiến trình

a. Định nghiệp

Là nghiệp được vận hành, lưu chuyển trong thời gian ổn định và từ nhân đến quả thống nhất với nhau. Ví dụ, trứng gà sau khi được ấp trong một thời gian sẽ nở ra gà con. Nói chung, các nghiệp nhất định sẽ đưa đến kết quả thì gọi là định nghiệp.

b. Bất định nghiệp

Là nghiệp không dẫn đến kết quả, hoặc kết quả sẽ thành tựu trong thời gian không xác định, hoặc có thể giữa kết quả và nguyên nhân không hoàn toàn thống nhất với nhau thì được gọi là bất định nghiệp. Cho ví dụ…

3. Theo thời gian

Nếu căn cứ theo thời gian, chúng ta có thể nhận ra hai loại nghiệp, đó là nghiệp đã chín muồi hay gọi là nghiệp cũ, và một loại nghiệp đang diễn tiến hoặc sẽ diễn tiến trong dòng chảy tạo tác của nghiệp, gọi là nghiệp mới.

a. Nghiệp cũ

Là nghiệp đã được tích lũy từ nhiều kiếp sống trong quá khứ và hiện tại nó đã được chín muồi. Chẳng hạn, thân thể của ta (cao, thấp, mập, ốm, thông minh, ngu đần, hạnh phúc hay bất hạnh…) ngày nay là do cái nghiệp đã gieo từ vô thỉ ở quá khứ. Các nghiệp quả (y báo và chánh báo) của thân này là quả dị thục của các nghiệp nhân từ vô thỉ. Ngoài thân này, không hề có một cái nghiệp riêng lẻ, cũ xưa nào khác.

b. Nghiệp mới

Nếu như thân thể này là nghiệp cũ thì mọi tạo tác đang làm và sẽ làm của chính thân thể này là nghiệp mới

Ví dụ, sự thành đạt của ta ngày hôm nay là do các tạo tác trước đó. Và sự thành đạt của ngày mai như thế nào sẽ phụ thuộc vào tư duy và hành động của ngày hôm nay. Kinh Tương Ưng IV, đức Phật dạy: “Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý là nghiệp cũ. Các hành động của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý trong hiện tại là nghiệp mới.”

Trong truyện Kiều, thi hào Nguyễn Du đã chỉ rõ cái nghiệp cũ và mới của con người:

“Sư rằng phúc họa đạo trời

Cội nguồn cũng ở lòng người mà ra

Có trời mà cũng có ta

Tu là cội phúc, tình là dây oan.”

Họa và phúc (thiện, ác) là đạo trời, nhưng cái đạo trời ấy cội nguồn của nó chính là ở tại lòng người (tâm, ý) mà sinh ra. Và trời ở đây là nghiệp cũ, còn ta chính là nghiệp mới.

4. Theo tính chất

Theo giáo lý về nghiệp, một nhân không thể tạo thành một quả. Mà phải có các duyên phụ trợ. Cho nên, phải nói đủ là Nhân-Duyên-Quả. Duyên là các nhân phụ làm cho nhân chính thành quả ; như nước, phân, đất, sự cần mẫn chăm bón của con người (là các duyên) làm cho hạt giống thành tựu nảy nở. Vì thế, dựa vào tính chất của nghiệp quả khi chín muồi, hay còn gọi là quả dị thục của nghiệp, người ta phân định thành ba loại, đó là Dị thời nhi thục, Dị loại nhi thục và Biến dị nhi thục.

     a. Dị thời nhi thục

Là thời gian chín muồi của nghiệp quả khác với thời gian tạo nghiệp (nghiệp nhân). Ví dụ như trái xoài, thời điểm khi sanh ra cho tới khi nó chín là ở hai thời điểm khác nhau, nghĩa là khác thời mà chín.

b. Dị loại nhi thục

Là kết quả của nghiệp bị biến chất so với lúc mới tạo nghiệp. Ví như trái xoài khi nhỏ thì chua, nhưng khi chín thì ngọt.

c. Biến dị nhi thục

Là kết quả của nghiệp biến thái về hình tướng so với lúc tạo nghiệp. Ví như trái xoài non thì màu xanh, đến khi chín thì màu vàng.

5. Theo chức năng

Ảnh hưởng của dòng nghiệp lực đã chi phối trực tiếp hay gián tiếp trong cuộc sống an vui hoặc đau khổ của chúng sanh, nên đứng về phương diện chức năng hay công tác, Luận Thắng Pháp chia làm bốn loại nghiệp, đó là sanh nghiệp, trì nghiệp, chướng nghiệp và đoạn nghiệp.

a. Sanh nghiệp

Là nghiệp chi phối sanh trưởng cho một đời sau. Sự chết của con người chỉ là một hiện tượng tạm thời. Để rồi theo lực của nghiệp chi phối sự tái sanh vào một cảnh giới nào đó. Chính tâm sát na cuối cùng khi lâm chung sẽ định đoạt đời sống tương lai của con người.

b. Trì nghiệp

Trì là giữ gìn hay duy trì.

Là nghiệp tiếp theo của sanh nghiệp, có khả năng duy trì và nâng đỡ sanh nghiệp cho đến khi mạng chung. Nghĩa là nghiệp lực này duy trì sự sanh tồn của chúng sanh từ lúc chào đời cho đến lúc lâm chung. Con người có được hạnh phúc hay không, việc làm có thành tựu hay không đều tùy thuộc vào loại trì nghiệp này.

Mỗi thiện trì nghiệp có thể làm cho con người khỏe mạnh, an lạc. Trái lại, một bất thiện trì nghiệp sẽ làm cho con người bệnh tật, khổ đau. Ví dụ như trong việc học hành, nếu là thiện trì nghiệp, nó sẽ duy trì vào sự học hành đưa đến chỗ vinh quang, đỗ đạt.

c. Chướng nghiệp

Là là loại nghiệp có động lực làm cho yếu ớt, chậm trễ hay đôi lúc làm dừng lại hoàn toàn sự kết thành của sanh nghiệp. Chúng ta có thể ví dụ chướng nghiệp và sanh nghiệp là hai lực ngược chiều nhau, chướng nghiệp này, tác dụng của nó cũng trái với trì nghiệp. Ví dụ như chướng nghiệp làm ngăn trở sự khổ vui của chúng sanh, đang vui liền sầu não, đang khổ lại hân hoan.

d. Đoạn nghiệp

Là nghiệp đoạn trừ, tiêu diệt năng lực của sanh nghiệp, ví như một mũi tên đang bay bị một sức mạnh nào đó cản lại khiến cho mũi tên rơi xuống đất. Sức mạnh ấy là đoạn nghiệp và đoạn nghiệp này có thể là thiện hay ác. Sự kiện này còn gọi là cắt đứt dòng sinh mệnh, không phải do định mệnh hay số phận đã an bài, không phải vì oan uổng mà chính vì đoạn nghiệp của người ấy quá mạnh.

Theo kinh Ưu Bà Tắc nói về sự nặng nhẹ của nghiệp nhân và nghiệp quả phân chia làm 4 trường hợp.

- Việc nặng mà ý nhẹ: như khi quăng đá để doạ người mà lỡ tay giết phải người.

- Việc nhẹ mà ý nặng: như khi quăng viên đá, nhưng muốn viên đá đó trúng vào chỗ hiểm để người kia chết.

- Việc và ý đều nhẹ: như không thích một người nào đó, nên dùng lời châm biếm người ấy.

- Việc và ý đều nặng: như lòng căm thù, cố ý giết người và đã giết thật.

6. Theo cá nhân hay tập thể

Đứng ở góc độ cá nhân hay tập thể, người ta phân chia làm hai loại nghiệp là Cộng nghiệp và Bất cộng nghiệp (biệt nghiệp).

a. Cộng nghiệp

Là nghiệp chung của xã hội, tập thể hay cả gia đình. Sống chung trong một môi trường, chúng ta cùng thọ chung những thứ như sông, núi, ao, hồ, không khí… gọi là cộng trung cộng nghiệp. Nhưng cũng có những thứ mà cá nhân chúng ta hưởng riêng như nhà cửa, ruộng vườn… gọi là cộng trung bất cộng nghiệp.

b. Bất cộng nghiệp (biệt nghiệp)

Gọi là biệt nghiệp, đây là nghiệp riêng của cá nhân, và nghiệp này cũng có hai trường hợp. Trường hợp thứ nhất, tuy là của riêng mình, nhưng người khác cũng có thể nương tựa vào, như thân thể của chúng ta là nơi nương tựa của rất nhiều loại ký sinh trùng. Trường hợp thứ hai là của riêng ai thì người ấy sử dụng, như các giác quan riêng của mỗi người.

7. Theo sức mạnh

Về phương diện sức mạnh và diễn tiến đưa đến hình thành quả báo, Luận Thắng Pháp chia làm bốn loại nghiệp là Tích lũy nghiệp, Tập quán nghiệp, Cực trọng nghiệp và Cận tử nghiệp.

a. Tích lũy nghiệp

Là những nghiệp đã tạo tác trong nhiều đời chất chứa lại. Nghiệp này như là chỗ chứa đựng các nghiệp cho một chúng sanh.

b. Tập quán nghiệp

Là những nghiệp tạo trong đời hiện tại, những hành động này luôn luôn tiếp diễn nên tác thành thói quen, thành tập quán, thành cá tính, nếp sống riêng biệt. Tập quán nghiệp tốt có thể giúp con người hoan hỷ khi lâm chung, và ngược lại, tập quán nghiệp xấu sẽ khiến con người đau khổ.

c. Cực trọng nghiệp

Là nghiệp quan tọng, có năng lực tác động mãnh liệt hơn các nghiệp khác và chi phối tất cả. Nghiệp này nhất định tạo thành kết quả ngay trong đời hiện tại hay trong đời kế tiếp. Cực trọng nghiệp có thể là thiện hay bất thiện. Nó có thể là hành vi tốt đẹp, trạng thái tâm thức của những vị tu tập chứng đắc các cảnh giới thiền định; Nó cũng có thể là kết quả của những hành vi xấu xa của thân, khẩu, ý nghiệp. Có năm cực trọng nghiệp là giết cha, giết mẹ, giết Bậc A-la-hán, phá hòa hợp Tăng và làm thân chư Phật chảy máu. Cực trọng nghiệp này gọi là Vô gián nghiệp.

d. Cận tử nghiệp

Là hành động tạo ra với sự cố ý hay nhớ nghĩ lại những việc đã làm trong quá khứ lúc lâm chung. Nghiệp này rất quan trọng vì nó chi phối đến việc tái sanh.

Cận tử nghiệp là nghiệp vừa được tạo tác ra trước lúc chết, là yếu tố quyết định cảnh giới tái sanh. Tuy nhiên, trong Kinh đã nói rõ, tập quán nào mạnh nhất thì sẽ sống dậy mãnh liệt nhất trước lúc chết. Điều này cũng nói lên rằng, với một người có tâm tu tập, thường hành chánh niệm tỉnh giác sẽ giữ được phần chủ động trong việc đi thác sanh. Nếu sự tỉnh giác sau cùng đủ mạnh để đoạn trừ tham ái thì vị ấy có thể giải thoát nghiệp ngay tại chỗ, không còn đi đầu thai nữa. Nếu tâm trước lúc chết đầy dục ái thì ta tái sanh về cõi đau khổ. Như thế, rõ ràng chúng ta có điều kiện tâm lý để chọn lựa cảnh giới thác sanh ngay trong đời sống hiện tại, nếu ta biết chuẩn bị tâm lý tương ứng với cảnh giới muốn thác sanh. Biết rõ như vậy, từ đó chúng ta hướng tâm ý vào thiện nghiệp để đem đến kết quả tốt cho đời sống của ta và người xung quanh.

III. MỘT SỐ NHẬN THỨC VỀ GIÁO LÝ NGHIỆP

Qua những gì vừa trình bày ở trên, chúng ta thấy nghiệp là một định luật phổ biến và công bằng. Nghiệp báo là một định luật có hiệu lực trong một phạm vi riêng biệt, không chịu ảnh hưởng của một tha lực nào bên ngoài đưa vào. Nghiệp chính là cốt lõi của giáo lý nhân quả, tính chất và mức độ của nghiệp vô cùng phức tạp. Trong sự báo ứng, khả năng trổ quả đã dính liền với nghiệp. Trong hành động của thân khẩu ý, đã có tiềm tàng năng lực tạo ra kết quả, cũng như trong hạt mầm đã có tiềm lực tạo nên cây và sanh ra trái. Sự liên quan giữa hạt giống và hoa trái cũng như giữa nghiệp và quả, hay nói cách khác, trong nhân đã có mầm của quả; và các yếu tố Duyên trong tiến trình Nhân-Duyên-Quả nhiều khi đóng vai trò quan trọng trong việc tạo nghiệp.

Nghiệp là một năng lực cá biệt được chuyển từ kiếp này sang kiếp khác. Nghiệp đóng một vai trò quan trọng trong việc cấu thành tâm tánh của con người. Nhưng Phật giáo chủ trương rằng, nghiệp không bị tàng trữ trong một nơi nào cố định trong tâm linh, trong guồng máy năm Uẩn phức tạp và luôn luôn biến đổi này. Tuy nhiên, tất cả nghiệp lực đều tùy thuộc vào sự biến đổi liên tục của tâm thức con người, và nó luôn luôn sẵn sàng phát hiện trong muôn ngàn hiện tượng mỗi khi hội đủ nhân duyên. Mặc dù trong Duy thức học có đề cập đến A-lại-da thức hay còn gọi là Tàng thức, nhưng nó không phải là một kho chứa cố định, bất biến, không phải là cái ngã vĩnh viễn thường hằng hay linh hồn bất diệt, mà nó luôn luôn trôi chảy liên tục như dòng sông: “Hằng chuyển như bộc lưu”

Phật giáo không nhìn nhận có một linh hồn trường cửu được tạo nên một cách ngẫu nhiên và độc đoán. Phật giáo cũng không chủ trương có sự thưởng phạt do một đấng thần linh toàn trí toàn năng tối thượng nào ban bố cho những linh hồn đã làm việc lành hay gây điều ác. Theo giáo lý nghiệp báo - một định luật công bằng và hiển nhiên, thì mỗi hành động đều gây nên một phản ứng tương xứng, như khi chúng ta nếm trái banh vào tường và nó dội ngược lại. Đã gieo nhân thì phải hái kết quả, nơi này hay lúc khác, kiếp hiện tại hay trong kiếp tương lai, như trong kinh Pháp cú số 127, đức Phật dạy:

“Không trên trời dưới biển,

Không lánh vào động núi,

Không chỗ nào trên đời,

Trốn được quả ác nghiệp.”

Hay:

“Giả sử bách thiên kiếp,

Sở tác nghiệp bất vong,

Nhân duyên hội ngộ thời,

Quả báo hoàn tự thọ.”

Thuyết nghiệp báo trong Phật giáo không bao giờ chấp nhận một cuộc phán xử sau kiếp sống hay hứa hẹn một hạnh phúc hão huyền trong tương lai. Giáo lý nghiệp báo chủ trương rằng, chúng ta không phải bị trói buộc nhất định trong một hoàn cảnh nào, vì nghiệp không phải là định mệnh, cũng không phải là tiền định do một oai lực huyền bí nào đã định đoạt cho chúng ta một cách bất khả kháng. Chính hành động thiện hay ác của ta gây ra phản ứng lành hay dữ. Do đó, chúng ta hoàn toàn tự do tạo ra những phản ứng mới để chuyển hóa nghiệp lực của mình theo ý mình muốn.

Một hôm, có vị Bà-la-môn hỏi đức Phật:

- Thưa Sa-môn Gotama! Hằng ngày tôi sống trong môi trường tốt, luôn biết gieo những hạt giống lành như từ bi, hỷ xả, bao dung, độ lượng, lắng nghe, thấu hiểu, thương yêu, thông cảm, tha thứ, phóng sinh, bố thí, giúp đỡ mọi người. Thưa Sa-môn Gotama! Tôi sống tốt như vậy, nếu như tôi chết một cách bất đắc kỳ tử, tôi sẽ sinh về đâu?

Phật trả lời: - Này Bà-la-môn! Ta hỏi ông, nếu có một cây mọc trên bờ sông Hằng và nghiêng về hướng Tây, khi ngã nó sẽ ngã về hướng nào?

Bà-la-môn trả lời: - Dĩ nhiên nó sẽ nghiêng về hướng Tây. Phật khen Bà-la-môn trả lời đúng.

Đức Phật dạy:

- Cũng vậy, này Bà-la-môn, nếu hằng ngày ông luôn biết gieo những hạt giống tốt, khi chết một cách bất đắc kỳ tử thì ông cứ theo nhân tốt đó mà tái sinh vào thế giới tốt cũng giống như cây ban đầu nghiêng về hướng Tây thì khi ngã, nó sẽ ngã về hướng Tây. Ngược lại, nếu hằng ngày ông luôn vun bồi những hạt giống xấu, khi chết một cách bất đắc kỳ tử thì ông cứ theo nhân xấu đó mà tái sinh vào thế giới đau khổ, cũng giống như cây ban đầu nghiêng về hướng Tây, khi ngã nó sẽ ngã về hướng Tây.

Đó là lời dạy vô cùng sáng tỏ về chỗ chí hướng vươn lên với khát khao cái gì thì ngay đây ta đã đi vào cõi an lạc đó, và mai sau khi lìa đời ta chắc chắn đi theo hướng ấy. Hay trong bài Kinh về hạt muối trong Niyaka, Đức Phật cũng thuyết minh rằng: vốc muối nếu ta bỏ vào chén nước thì mặn vô cùng, nhưng nếu bỏ vốc muối ấy xuống sông Hằng thì không còn đâu chất mặn vì nước sông Hằng bao la. Cũng vậy, nếu làm mãi một hành động ác thì khác gì đem muối bỏ vào một chén nước nhỏ. Trái lại, nếu một lần nghiệp ác thì nghiệp nhân ấy chưa đủ để trổ quả vì liền sau đó, tâm ý được nối vào bởi bao thiện nghiệp, nếu thiện nghiệp này cứ gia tăng mãi thì nghiệp ác ấy cũng tiêu tan từ từ, khiến nó mất đi.

Nói tóm lại, nghiệp và nghiệp quả đều tùy thuộc ở tâm, hành động và kết quả của hành động đều do tâm tạo nên. Vì nghiệp có thể tốt hay xấu và quả có thể lành hay dữ. Nếu sự tạo tác thuộc về tâm thì quả dị thục cũng thuộc về tâm; và sự tạo tác thuộc về thân thì quả dị thục cũng thuộc về thân. Khi ta nghe hạnh phúc an vui, khoan khái trong lòng hay buồn bực đau khổ… đó là ta đang thọ quả báo thuộc về tâm. Trong phạm vi vật chất thì những phước báo như giàu sang, mạnh khỏe, tuổi thọ… hay là những cảnh khổ như bần cùng, bệnh tật, chết yểu… tùy theo nghiệp nhân đã gieo tốt hay xấu.

Như vậy, chính nghiệp lực là yếu tố tạo nên sự khác biệt giữa người với người, giữa cộng đồng này và cộng đồng khác; cũng chính nghiệp lực đã khiến cho chúng sanh luân hồi trong ba cõi sáu đường. Như trong kinh tạng Pali, đức Phật dạy: “Do sự khác biệt giữa cái nghiệp của mỗi chúng sanh nên có sự chênh lệch trong xã hội như được, thua, hơn, thiệt, danh thơm, tiếng xấu, được kính nể hay bị khinh rẻ, phúc hậu hay bần cùng…Do nghiệp thế gian luân chuyển, do nghiệp chúng sanh sinh tồn, và cũng do nghiệp mà chúng sanh bị vướng víu, liên kết nhau như bánh xe, cấu hợp dính liền và quay tròn xung quanh cái trục.”

IV. TU TẬP THEO GIÁO LÝ NGHIỆP

Giáo lý Nghiệp xây dựng một nền tảng luân lý đạo đức bằng cách giáo dục con người biết đoạn ác tu thiện, tự ý thức và chịu trách nhiệm hoàn toàn với những hành vi, lời nói, ý nghĩ của mình, thấy rõ tác hại của việc bất thiện nghiệp, giúp nhân loại sống đúng luật đúng pháp. Nghiệp còn giúp cho chúng ta hoàn thiện nhân cách, đạo đức, nhằm cải hóa tự thân, xã hội và thế giới.

Giáo lý nghiệp dạy cho chúng ta biết chế ngự mọi bất hạnh khi những điều bất như ý xẩy ra. Nó còn đem lại cho người học Phật niềm hy vọng, chỗ nương tựa và sự khích lệ tinh thần để can đảm vững bước trên con đường hoàn thiện nhân cách, đạo đức và tâm linh của mình. Niềm tin nơi nghiệp báo sẽ nâng cao giá trị con người.

Sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sanh tạo nên. Đó là một định luật tự nhiên. Chính vì sự thọ nghiệp một cách bất tận như thế nên chúng sanh bị cuốn trôi trong vòng xoáy của  luân hồi. Thích quảng Độ, Nguyên Thủy Phật Giáo Tư Tưởng Luận, Lưu hành nội bộ, 1999, tr. 654 có nói“Thế gian y vào nghiệp mà chuyển, hữu tình bị nghiệp trói buộc, cũng như bánh xe y vào cái trục mà quay”. Đồng thời cũng khẳng định rằng tu là chuyển nghiệp. Ai biết được cái nghiệp đã tích trữ của một người khác? Tu là chuyển ba nghiệp ác thành ba nghiệp thiện. Đó cũng chính là xác định niềm tin giác ngộ của chính mình.

Chúng ta thấy rằng, toàn bộ hệ thống giáo lý của đức Phật với mục đích là chuyển mê khai ngộ ly khổ đắc lạc, được thâu tóm trên con đường Giới-Định-Tuệ. Điều này được thấy rõ qua bài kinh Pháp Cú 188 rằng:

“Không làm các điều ác

Chỉ làm các điều lành

Giữ tâm ý trong sạch

Là lời chư Phật dạy”

Bởi vì, không làm các điều ác, nên làm việc lành là đã dùng giới của mình để bảo vệ cho thân, khẩu, ý luôn được trong sạch và thanh tịnh trong suốt lộ trình tu tập. Do vậy mà định được phát sanh. Nhờ định mới phát sinh trí tuệ, có trí tuệ chúng ta nhận diện được nên làm những gì, nên tránh những gì, nên tạo những thiện nghiệp nào và nên tránh những ác nghiệp nào. Nhờ có trí tuệ chúng ta thoát khỏi sự ràng buộc của nghiệp đã chi phối đời sống của mình, mang lại niềm an vui ngay trong đời sống hiện tại cũng như trong tương lai.

       Chúng ta thấy rõ chủ yếu của đạo Phật là chuyển hóa nghiệp ác thành nghiệp thiện và thanh lọc tâm cho thanh tịnh. Cho nên đạo Phật chủ trương chuyển hóa người ác thành người thiện, chuyển hóa phàm nhân thành thánh nhân, chuyển hóa nước đục thành nước trong, chứ không chủ trương tiêu diệt tất cả kẻ ác trên đời. Bông sen từ bùn nhơ vươn lên tỏa hương thơm ngát là ví dụ tượng trưng cụ thể người xấu cũng có thể chuyển hóa thành người tốt, nếu như biết sám hối ăn năn, quyết tâm chuyển ba nghiệp xấu ác, trở thành ba nghiệp thanh tịnh. Trên đời không ai hoàn toàn xấu ác, cũng không ai toàn thiện. Cho nên người tu theo Phật, cố gắng biết các điều ác nên bỏ, biết các việc thiện nên làm. Được như vậy, mọi người trong xã hội sống chung với nhau trong hòa hợp, bình an, và ngăn ngừa các mâu thuẫn, xung đột giữa người với người. Tuy nhiên sự khác biệt của đạo Phật với các tôn giáo khác nằm ở câu kệ thứ ba: "Giữ tâm ý thanh tịnh".

Chúng ta thấy rằng không có một cái gì là cố định, không có một cái gì là định pháp hay định mệnh, tâm thức chúng ta biến chuyển từng sát na và do đó nghiệp thức lẫn nghiệp quả cũng thay đổi từng sát na. Giả sử nếu có ông thầy bói toán tử vi tướng số nói những gì trong tương lai mà chúng ta tin, tức là chúng ta tin rằng muôn sự muôn việc là thường chứ không phải là vô thường, và là định pháp chứ không phải là bất định pháp, tức là chúng ta mù quáng mà phủ nhận định luật Nhân Quả và giáo pháp Vô Thường của Phật dạy.

Như đã được đề cập ở trên, nghiệp không phải là định mệnh, không phải là tiền định và chúng ta có thể tu tập để chuyển hóa nghiệp lực. Trong kinh Tương Ưng, đức Phật dạy: “Nếu ai cho rằng con người phải gặt hết quả của tất cả những hành động trong quá khứ thì không thể có đời sống đạo đức, và con người cũng không có cơ hội để tận diệt phiền não. Nhưng nếu nói rằng, quả gặt tương xứng với nhân thì ắt có đời sống đạo đức, và con người sẽ có cơ hội dập tắt phiền não.”

Thật vậy, chúng ta đã luân hồi sanh tử trong vô lượng kiếp và nghiệp chúng ta tạo ra là vô số, nếu như phải trả hết quả của tất cả hành động trong quá khứ thì không ai trong chúng ta có thể mong có ngày giải thoát. Nhưng trong thực tế, có những người khét tiếng là một tay sát nhân đã giết rất nhiều đồng loại, sau khi đã trở thành đệ tử của đức Thế Tôn, tu hành và chứng quả A-la-hán, đó là trường hợp của Tôn giả Angulimala.

Như vậy, vấn đề trọng tâm của sự tu tập giải thoát không phải là tiêu diệt hay đoạn trừ nghiệp, mà chỉ đoạn trừ nguồn gốc của nghiệp. Nguồn gốc của nghiệp chính là vô minh, hay sự không thấu hiểu được thực tướng của sự vật là nguyên nhân tạo ra nghiệp. Trong giáo lí Duyên khởi, đức Phật dạy: “Do nơi vô minh, hành phát sinh”, nghĩa là do sự không am hiểu chân tướng của vạn pháp nên mới có những hành động tạo nghiệp. Và ái dục đi liền với vô minh, là một nguyên nhân khác tạo nghiệp. Chính vô minh ái nghiệp là cội rễ của mọi tội ác. Tất cả mọi hành động của con người dù thiện hay bất thiện vẫn còn tạo nghiệp vì chưa đoạn tận vô minh và ái dục. Chỉ có hành động của chư Phật và chư vị A-la-hán mới không tạo ra nghiệp vì các Ngài đã đoạn tận nguồn gốc của nghiệp, đã chứng ngộ Niết bàn.

Muốn đoạn trừ vô minh và ái dục thì hành giả phải tu tập Tam Vô Lậu Học Giới-Định-Tuệ. Tu tập theo con đường Trung đạo là lộ trình chân chính có khả năng loại trừ mọi hoặc nghiệp, chuyển hóa mọi ác nghiệp. Trong kinh Tương Ưng, đức Phật dạy: “Này các thầy Tỳ-kheo, người kia không biết khép mình vào kỷ cương của thể xác, của chân lý, của tâm, của trí tuệ, kém đạo đức, kém giới hạnh và do đó, sống đau khổ. Dầu một hành động tầm thường của người ấy cũng đủ tạo quả đưa vào cảnh khổ. Nhưng này các Tỳ-kheo, người kia có nếp sống kỷ cương, về vật chất cũng như luân lý, tinh thần và trí tuệ, đạo đức cao thượng, biết làm điều thiện và lấy tâm từ bi vô lượng đối với tất cả mọi chúng sanh. Người như thế, dầu có một hành động tầm thường, hành động ấy cũng không tạo quả trong kiếp hiện tại hay kiếp tương lai.”

Con đường tu tập chuyển hóa nghiệp này, đức Phật đã trình bày rất rõ trong tất cả các bài kinh, vì đây là mục đích duy nhất của đạo Phật. Điển hình nhất là giáo lý Tứ Diệu Đế. Toàn bộ 37 phẩm trợ đạo trong phần Đạo Đế được Đức Phật trình bày dựa trên nền tảng của Tam Vô Lậu học. Người Phật tử tùy theo khả năng, sự hiểu biết và sở thích của mình, mà chọn cho mình một pháp môn, một phương pháp để thực hành và chuyển hóa nghiệp. Chẳng hạn, chúng ta có thể tu tập pháp Tứ Niệm Xứ, Tứ Chánh Cần, Ngũ Căn Ngũ Lực, Thất Giác Chi, Bát Chánh Đạo…

Đối với những Phật tử theo truyền thống Phật giáo Phát triển, trên cầu thành Phật, dưới nguyện cứu độ muôn loài chúng sanh, vì lợi ích chúng sanh mà chúng ta thực hành các việc lành, khi dụng tâm cần phải có tâm vị tha, vô chấp, luôn luôn quán tánh Không và an trụ trong chân tâm thanh tịnh mà làm việc thiện, thì sự tu tập mới có kết quả như nguyện.

V. LỢI ÍCH VÀ ỨNG DỤNG

Nghiên cứu, học hỏi và hiểu biết đúng đắn về giáo lí Nghiệp Báo sẽ mang lại nhiều lợi ích và những bài học kinh nghiệm trong cuộc đời. Chính giáo lí Nghiệp Báo đem lại cho người Phật tử niềm hy vọng, chỗ nương tựa và sự khích lệ tinh thần để can đảm vững bước trên con đường hoàn thiện nhân cách, đạo đức và tâm linh của mình. Niềm tin nơi nghiệp báo sẽ nâng cao giá trị của con người, kích thích lòng nhiệt thành và sự tinh tấn, vì người Phật tử tự biết rằng, mỗi chúng ta phải lãnh lấy trách nhiệm của chính mình. Chúng ta là vị kiến trúc sư kiến thiết nên số phận của đời ta, chính ta tạo thiên đàng hay địa ngục cho ta; đau khổ hay hạnh phúc, thanh tịnh hay ô nhiễm cũng đều do nơi hành động tự thân của ta. Người Phật tử phải luôn luôn khắc cốt ghi tâm lời dạy của bậc Đạo sư đã dạy để làm hành trang cho đời mình:

“Tự mình làm điều ác,

Tự mình làm ô nhiễm.

Tự mình ác không làm,

Tự mình làm thanh tịnh.

Tịnh thanh tịnh tự mình,

Không ai thanh tịnh ai.”

(PC. 165)

Chúng ta biết rằng, những gì mình suy nghĩ, nói năng hay hành động với sự cố ý thì sẽ tạo ra nghiệp, và chính nghiệp lực ấy đưa ta lên hay xuống từ kiếp này hay kiếp khác, mãi mãi trong vòng luân hồi. Mỗi khi hiểu rõ ràng định luật nghiệp báo, người Phật tử không bao giờ tin vào định mệnh, không tin vào một đấng siêu nhiên, thần quyền hay Thượng đế nào có thể quyết định số phận của ta. Người Phật tử không bao giờ van vái cầu xin được cứu rỗi. Trái lại, họ đặt trọn niềm tin vào chính mình, vào sự tinh tấn của mình để tự giải thoát, đó là hình ảnh hết sức đẹp và đầy sống động của một người Phật tử trong giáo pháp của Phật, như bài kệ Pháp cú số 29 đã dạy:

“Tinh cần giữa phóng dật,

Tỉnh thức giữa quần mê

Người trí như ngựa phi

Bỏ sau con ngựa hèn.”

Chính sự hiểu biết giáo lý Nghiệp Báo nên người Phật tử luôn luôn mở rộng tình thương, tha thứ và cảm thông đối với mọi người xung quanh. Chúng ta không lên án kẻ hư hèn tội lỗi, bởi vì mọi người đều có khả năng và cơ hội để tự cải thiện lấy chính bản thân của họ khi cơ duyên đầy đủ. Hiện tại có những người xấu xa, đau khổ… nhưng chúng ta hi vọng rằng, trong một lúc nào đó, họ cũng có thể trở thành người tốt, an vui, hạnh phúc và có thể đạt được giải thoát tối thượng.

Như vậy, giáo lý Nghiệp Báo giúp con người bình tĩnh sáng suốt, biết nhận lấy trách nhiệm của mình. Từ đó họ luôn luôn thận trọng trong từng cử chỉ, lời ăn tiếng nói và trong suy nghĩ của họ. Giáo lý Nghiệp Báo có thể giúp nhân loại có cái nhìn khách quan về cuộc đời và tạo nền tảng cho một nền đạo đức nhân bản: "Không làm khổ mình, không làm khổ người khác”, nếu họ muốn xây dựng nếp sống gia đình hạnh phúc, xã hội công bằng, một thế giới hòa bình văn minh và thịnh vượng. Giáo lí Nghiệp Báo nếu được giảng dạy cho các học sinh và cho cả mọi người thì nó sẽ mang lại lợi ích rất lớn trong việc định hướng hành động, lí tưởng và ước mơ của họ trong cuộc sống, giúp họ có hướng đi sáng đẹp trong cuộc đời, vượt qua được những cám dỗ, những tệ nạn xã hội của nền văn minh vật chất hôm nay.

C. KẾT LUẬN

Đạo Phật là đạo của trí tuệ chứ không phải giáo lý của niềm tin, đến với đạo Phật là đến để thấy, đến để nhận diện về mình và đến để chuyển hóa nghiệp lực của mình. Do vậy, nếu những ai muốn có nguyện vọng xây dựng hạnh phúc cho chính mình, xây dựng hạnh phúc gia đình và xây dựng một xã hội bình yên thì hãy xây dựng cho mình một nền tảng căn bản về giáo lý nghiệp này. Đó chính là không làm khổ mình không làm khổ người. Như khi chưa biết tu tập, chúng ta có thể trộm cướp lường gạt người khác bằng mọi mánh khóe, thủ đoạn, nay biết tu tập rồi, thấy đó là hành động không tốt, có hại cho mình và người nên không làm. Trước do không hiểu nên ta làm ăn buôn bán gian lận, lừa đảo, nay biết về Nghiệp Báo Nhân Quả, chúng ta làm ăn chân chánh, chân thật để tạo nên nghiệp tốt v.v…

Như vậy, nghiệp là do mình huân tập mà thành, vì thế mình có quyền thay đổi chứ không cam chịu đầu hàng số phận.

      Với giáo lý nghiệp này, đức Phật đã trả con người về với vị trí xứng đáng của họ, tự tin làm chủ cuộc đời mình chứ không lạy lục van xin ai. Vì vậy, đối với những việc làm có tính cách mê tín hay là tin vào vận mệnh đã an bài thì không có chỗ đứng trong Phật giáo. Người Phật tử được khuyên bảo cẩn trọng, đừng để rơi vào hố sâu mê tín khiến tâm bị rối loạn bởi sự sợ hãi không cần thiết. Một thời tọa thiền hay niệm Phật hằng ngày giúp ích rất nhiều để tự thanh lọc tư tưởng bất thiện trong tâm. Tâm được thanh lọc tự động dẫn đến một thân thể trong sạch và khỏe mạnh. Phật pháp là liều thuốc chữa khỏi các loại tâm bệnh này. Một phút giây tâm được tịnh là ngưng tạo bao nhiêu nghiệp, ngưng gieo bao nhiêu nhân và xa bao nhiêu dặm khổ ải.

 

BÀI 3

A. DẪN NHẬP

Sống trên đời này hầu như ai cũng mong cầu hạnh phúc, chẳng ai lại thích khổ đau. Thế nhưng mấy ai có thể tránh khỏi những đau thương, khổ lụy. Có người khổ về nghèo đói, bệnh tật có người khổ về tiền tài, tình duyên…Xã hội ngày nay phát triển vượt bậc, đời sống vật chất con người được nâng cao, không chỉ là ăn no, mặc ấm mà còn ăn ngon, mặc đẹp. Song, trên thế giới vẫn còn hàng triệu người dân nghèo đói, suy dinh dưỡng ở khắp nơi, đặc biệt là 25 triệu trẻ em Châu phi, bốn tiệu người dân Sri Lanka đang quằn quoại, đau đớn chống chọi với cái đói, cái khát và nguy cơ tử vong cận kề. Có ngững người sống trong biệt thự, cao ốc… nhưng cũng có kẻ sống lang thang đầu đường xó chợ. Có người nhà yên cửa ấm nhưng không ít người gia đình tan nát, hay tình duyên trắc trở. Tại sao có người ăn không hết nhưng có kẻ làm không ra? Tại sao trên đời này có nhiều sự khác biệt đến thế? Những hạnh phúc, khổ đau của mỗi người từ đâu mà có? Do thượng đế, thần linh hay một người nào đó ban tặng, sắp xếp hay nó tự nhiên mà có? Theo giáo lý Đạo Phật, đặc biệt là trong kinh “Tiểu Nghiệp Phân Biệt”, “Đại Nghiệp phân biệt” hay “Nghiệp Báo Sai Biệt” thì Đức Phật dạy tất cả những gì hôm nay chúng ta gặt hái đều là do NGHIỆP mà chúng ta đã tạo, và cái quả mà chúng ta nhận gọi là nghiệp báo.

B. NỘI DUNG

I. ĐỊNH NGHĨA

Vậy Nghiệp báo là gì?

Nghiệp là hành động tạo tác có tác ý, có dụng tâm. Ðạo Phật có một quan niệm rộng về hành động. Hành động ở nơi thân, thường được gọi là việc làm, và một việc làm có dụng tâm được gọi là thân nghiệp. Lời nói có dụng tâm thì gọi là khẩu nghiệp. Mọi người hay nói: "Lời nói gió bay". Câu ấy không đúng. Mọi lời nói ác, khi có đủ nhân duyên và đúng thời gian đều sẽ đem lại quả báo xấu cho người nói. Lời nói thiện lành cũng có tác dụng như vậy, theo hướng thiện lành. Có dụng tâm thiện hay ác là ý nghiệp, mặc dù ý nghĩ đó chưa thành lời nói hay hành động. Một người tuy cả ngày ngồi nhà, nhưng đầu óc anh ta luôn bày mưu tính kế làm giàu bằng những thủ đoạn như buôn gian, bán lận, đút lót cán bộ v.v... thì những mưu gian, kế độc của anh ta, tuy chưa đem ra thi hành, nhưng cũng đều là những ý nghiệp xấu, tương lai sẽ mang lại quả báo xấu cho anh ta.

Vậy nghiệp báo chính là những hoạt động thiện ác của con người đã tạo ra và phải nhận lấy kết quả xấu tốt ngay trong hiện tại và tương lai. Nó chính là cái quả của những hành động có dụng tâm từ thân, khẩu, ý. Do đó, nghiệp báo là một chân lý, nó minh chứng sự khác biệt giữa người với người hay giữa các cộng đồng người trên thế giới. Mỗi chúng ta là một, là duy nhất. Không có ai trên đời này giống với chúng ta cả. Dù cho là hai anh chị em sinh đôi thì cũng không giống nhau vì mỗi người có một nghiệp báo riêng biệt. Khi hiểu rõ điều này thì chúng ta sẽ không còn thắc mắc tại sao có sự khác biệt giữa người này với người khác, nó giải thích mọi bất công trong xã hội mà chúng ta thường nói không phải là vô lý, là không công bằng. Vì những gì hôm nay ta nhận lấy là do chính chúng ta tạo nên.

II. SỰ HÌNH THÀNH CỦA NGHIỆP

Tổ Quy Sơn có dạy rằng: Phù nghiệp hệ thọ thân, vị miễn hình lụy”Như vậy thì mọi việc xảy ra cho con người đều do nghiệp. Nhưng Nghiệp được hình thành và chi phối con người như thế nào chúng ta hãy tìm hiểu các chi phần của chúng.

Theo luật nhân quả chúng ta đã thấy hễ có nhân sẽ có quả và quả sẽ làm nhân để tiếp tục tạo ra quả trong tương lai. Nhân quả đắp đổi nhau và tiếp nối nhau không dứt.

Trong phạm vi con người, bất luận chúng ta tạo ra hành động nào bằng thân, khẩu, ý đều gọi là nghiệp. Những ảnh hưởng của nghiệp nhân ấy được gieo vào ruộng tiềm thức và trưởng thành dần, đôi khi chúng ta cứ tưởng hành động tạo tác của chúng ta đã qua đi nhưng nó vẫn còn tiềm ẩn bên trong tiềm thức để chờ đợi đủ duyên sẽ bộc lộ thành kết quả, lúc ấy gọi là nghiệp quả.

Nghiệp quả ấy lại được gieo vào tiềm thức để làm nghiệp nhân cho nghiệp quả về sau. Ruộng tiềm thức là nơi chất chứa, nuôi dưỡng tất cả những hạt nhân và quả ấy. Nó sẽ trở thành ruộng thiện nếu nghiệp nhân và nghiệp quả đều là thiện, trở thành ruộng ác nếu nghiệp nhân và nghiệp quả của nó đều là ác hay trở thành ruộng nửa thiện nửa ác nếu nghiệp nhân và nghiệp quả đều có thiện và có ác.

VD: nếu chúng ta có một đám ruộng trồng toàn là đậu thì chúng ta sẽ có một đám ruộng toàn là đậu, còn nếu chúng ta trồng một nửa là đậu một nửa là ớt thì chúng ta sẽ có một đám ruộng đậu và ớt lẫn lộn.

Như vậy, nghiệp là do vô minh sanh ra thì chúng ta sẽ có quả báo đau khổ;  chẳng hạn như chúng ta không biết Quy Y Tam Bảo thì chúng ta mặc tình trộm cắp, nói dối, sát sanh hại vật, uống rượu …Tất cả đều do chúng ta bị vô minh nên nghiệp quả của chúng ta phải gánh chịu là tù tội, mất niềm tin nơi mọi người, thường mạng lẫn nhau, tâm trí đần độn ngu si, nếu nghiệp của chúng ta bắt nguồn từ trí tuệ thì nghiệp báo sẽ là cảnh giới an lành, chẳng hạn chúng ta tụng kinh, niệm Phật, tham thiền….nghiệp nhân tốt ấy sẽ cho chúng ta nghiệp quả phước báu sâu dày, tinh thần sáng suốt, thân tâm thơ thới…

III. SỨC MẠNH VÀ SỰ TỒN TẠI CỦA NGHIỆP

Nghiệp lực không có hình tướng không ai có thể trông thấy được, nhưng nó có tác dụng vô cùng mãnh liệt, như điện lực tuy không thấy hình dáng ở đâu và như thế nào nhưng khi nó đã đủ điều kiện thì nó phát ra nào là ánh sáng, là sức nóng, là sức mạnh, là hơi lạnh…..

Nghiệp lực thúc đẩy người này thích nghi hoàn cảnh này, người kia thích nghi hoàn cảnh kia, nó là nòng cốt của mọi tư tưởng, lời nói, hành động. Ví dụ: có người chơi đánh bạc, uống rượu, hút thuốc…mặc dù đã thua rất nhiều tiền rồi hay uống rượu đã say, người trông mệt mỏi và nóng bức nhưng họ vẫn cảm thấy dễ chịu và nhớ cảm giác thoải mái không thể bỏ được khi nhắc đến bài bạc, nên ta cho rng người đó bị nghiệp bài bạc, hay nghiệp rượu chè…

Càng đi sâu vào con đường nào thì cái nghiệp do con đường ấy huân tập càng nặng nề, mãnh liệt chừng ấy. Nghiệp không chỉ có sức mạnh mà nó còn tồn tại dai dẳng, không bao giờ chấm dứt nếu chúng ta chưa giác ngộ. Điều này cũng dễ hiểu rằng, có nghiệp nhân thì có nghiệp quả, chỉ đến chậm hay mau mà thôi, đã gây nghiệp thì thế nào cũng chịu quả báo.

Chúng ta hiểu được sức mạnh và sự tồn tại của nghiệp mãnh liệt như thế, nếu ta nhiếp ý thanh tịnh, giác tỉnh đi ra khỏi thiện ác thì tất cả là thực tại như thực, như như bất động không sinh diệt

IV. VAI TRÒ CỦA NGHIỆP TRONG ĐỜI SỐNG HIỆN TẠI

Giúp ta biết được một cách hợp lý mọi hiện tượng trong đời sống xã hội, dạy ta biết chế ngự mọi bất hạnh không gây ác nhân để nối dài chuỗi oan oan tương báo, mà biết n lực đem sức mạnh của ý chí, quyết tâm hành động thiện đi vào cuộc sống.

Nghiệp dạy cho ta bài học ngăn chặn cái ác để phục thiện, làm việc thiện gì ta đều biết được đâu là thiện, ác. Ta biết việc làm của mình ngay đây là việc làm giải thoát hay trói buộc

V. CÁC QUAN ĐIỂM KHÁC NHAU VỀ NGHIỆP

1. Ngoại đạo: họ quan niệm về con người với sự chi phối của số mệnh, họ cho rằng sự hiện hữu và tồn tại của con người đều do vị thần tối cao điều hành chi phối.

VD: Đạo Hồi – do Thánh A La an bài và quyết định số phận của họ. Đạo Công giáo – do Đức Chúa trời hay đạo Đạo Bà La Môn – do Phạm Thiên.

Theo phái túc mệnh: số phận con người là do quá khứ an bài. Phái Định Mệnh thì phủ nhận mọi cố gắng của con người đều vô ích, do khổ đau từ cuộc đời đưa đến

VI. PHÂN LOẠI NGHIỆP BÁO

1. Theo tính chất

Mọi hành động có dụng tâm của chúng ta đều đưa đến kết quả. Hành động có dụng tâm thiện thì đưa đến nghiệp quả lành, là sự an vui, hạnh phúc; ngược lại dụng tâm ác sẽ đưa đến nghiệp báo xấu, khổ đau. Mình gieo nhân nào thì mình phải gặt quả đó.

Nếu bạn gieo thành thật, bạn sẽ gặt lòng tin.

Nếu bạn gieo lòng tốt, bạn sẽ gặt thân thiện.

Nếu bạn gieo khiêm tốn, bạn sẽ gặt cao thượng.

Nếu bạn gieo kiên nhẫn, bạn sẽ gặt chiến thắng.

Nếu bạn gieo cân nhắc, bạn sẽ gặt hoà thuận.

Nếu bạn gieo chăm chỉ, bạn sẽ gặt thành công.

Nếu bạn gieo tha thứ, bạn sẽ gặt hoà giải.

Nếu bạn gieo cởi mở, bạn sẽ gặt thân mật.

Nếu bạn gieo chịu đựng, bạn sẽ gặt phép màu.

Nếu bạn gieo dối trá, bạn sẽ gặt ngờ vực.

Nếu bạn gieo ích kỷ, bạn sẽ gặt cô đơn.

Nếu bạn gieo kiêu hãnh, bạn sẽ gặt huỷ diệt.

Nếu bạn gieo đố kỵ, bạn sẽ gặt phiền muộn.

Nếu bạn gieo lười biếng, bạn sẽ gặt mụ mẫn.

Nếu bạn gieo cay đắng, bạn sẽ gặt cô lập.

Nếu bạn gieo tham lam, bạn sẽ gặt tổn hại.

Nếu bạn gieo tầm phào, bạn sẽ gặt kẻ thù.

Nếu bạn gieo lo lắng, bạn sẽ gặt âu lo.

Nếu bạn gieo tội lỗi, bạn sẽ gặt tội lỗi

Đôi khi chúng ta rất mâu thuẫn. Ai cũng muốn giàu có nhưng không chịu làm lụng, không lo bố thí. Muốn người khác đối xử tốt với mình mà mình lại đối xử tệ với mọi người, muốn giải thoát khỏi sanh tử nhưng luôn chìm đắm trong ngũ dục, thân khẩu ý không thanh tịnh. Chúng ta dù đi theo Phật nhưng không hành theo lời Phật dạy. Không làm chủ “nghiệp” của mình, không vượt lên được chính mình thì làm sao có thể vượt thoát khổ đau. Không tu tập thì làm sao có giải thoát. Cứ gieo nghiệp nhân ác thì sao mong nhận nghiệp quả lành được.

Tuy nhiên, lằn ranh giữa thiện và ác đôi lúc khá mong manh, khó phân biệt. Vì có những lời nói, hành động nhìn bên ngoài là hành động tốt, lời nói hay nhưng nó xuất phát từ một tâm địa đen tối, xấu xa với mục đích hại người, hại mình thì đó là nghiệp ác, tất nhiên đưa đến quả báo bất thiện. Và cũng có một số lời nói không ôn hòa, hành động không thân thiện nhưng ẩn bên trong là tấm lòng cao cả thì đó là nghiệp lành, đưa đến nghiệp quả tốt. Ví dụ một người cha, vì muốn con mình cai nghiện ma túy thành công mà phải nhốt con trong nhà, phải la rầy con nhưng đó không phải là nghiệp xấu ác. Vì vậy, chúng ta phải suy xét cho kỹ thì mới phân định được đâu là thiện, đâu là ác, cái nào đúng cái nào sai. Có một số việc chúng ta không thể chỉ nghe bằng tai, nhìn bằng mắt mà phải dùng trái tim để cảm nhận, dùng trí tuệ để quán chiếu thì mới tường tận được.

2. Theo thời gian

Dù tạo nghiệp ác hay nghiệp thiện cũng phải có đủ nhân duyên và thời gian thích hợp thì mới có quả báo thiện hay ác.

2.1. Hiện báo: Ðây là quả báo trong kiếp hiện tại; có nghĩa hiện hại gây nhân thì hiện tại gặt quả. Ví dụ hằng ngày mình hay nói dối nên chẳng ai tin tưởng mình. Hay giết người thì phải đền mạng, phải chụi cảnh tù đày... Ông bà ta có nói: “Đời xưa quả báo thì chầy, đời nay quả  báo một giây nhãn tiền.

            2.2. Sanh báo: Sanh báo là gây nhân kiếp nầy, đời kế sau mới chịu quả báo.

2.3. Hậu báo: Ðây là nói sự gây nhân trong đời nầy, đến vô lượng kiếp sau mới thọ quả báo. Hậu báo có tánh cách lâu hơn sanh báo.

Có người tuy hiện nay tạo ra nhiều nghiệp ác, nhưng vẫn sống sung sướng trong hoàn cảnh giàu sang, là vì người ấy trong một kiếp trước đã tạo ra nhiều nghiệp thiện, đến đời này vừa đúng thời gian lại có điều kiện thích hợp cho nên được quả báo lành, được hưởng giàu sang phú quý. Còn những nghiệp ác anh ta tạo ra trong đời sống hiện tại, thì chưa đến thời gian chín muồi, lại chưa có nhân duyên thích hợp, cho nên quả báo ác chưa đến (chứ không phải không đến!).

 

Như trong kinh Pháp  Cú Đức Phật dạy:

“Dù cho bay bổng trời cao

Lặn sâu đáy bể chui vào hang sâu

Dù cho ở chốn nơi đâu

Không sao tránh khỏi nghiệp gieo lâu đời”

Như Tổ Quy Sơn cũng dạy:

“Giả sử bách thiên kiếp,

Sở tác nghiệp bất vong,

Nhân duyên hội ngộ thời.

Quả báo hoàn tự thọ”.

VII. LỢI ÍCH VÀ ỨNG DỤNG GIÁO LÝ NGHIỆP BÁO VÀO CUỘC SỐNG

Ông Sean Covey, nhà khoa học phương Tây, đã mở đầu cuốn sách BẢY THÓI QUEN GẶT HÁI THÀNH CÔNG như vầy:

“Gieo suy nghĩ, gặt hành động

Gieo hành động, gặt thói quen

Gieo thói quen, gặt tính cách

Gieo tính cách, gặt số phận”

Số phận hay nghiệp của chúng ta đều từ suy nghĩ, từ tâm ý mình mà ra. Số phận chúng ta không phải là do một đấng thần linh nào ban tặng, quyết định. Nghiệp của chúng ta là do chính chúng ta đã tạo ra, có thể trong đời này, có thể ở đời trước, nó không phải từ trên trời rớt xuống hay dưới đất chui lên, cũng không phải do bất cứ một người nào sắp đặt. Như trong kinh Tăng Chi II có nói: “Ta là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp, nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sinh ra…”                                                                   

Khi hiểu được giáo lý Nghiệp Báo rồi, chúng ta phải cẩn thận tỉnh giác kiểm soát hành vi trong mọi tình huống, tự ý thức rõ chính mình, tự chịu trách nhiệm về cuộc đời của mình. Khi mỗi người đều tự ý thức, có trách nhiệm với bản thân, với mọi người, với công việc… của mình thì làm việc gì cũng dễ thành công, xã hội sẽ phát triển vượt bậc

 Giáo lý Nghiệp giúp chúng ta có cái nhìn về cuộc sống, con người không còn mê tín dị đoan. Chúng ta luôn tự làm chủ những hành động tạo tác của mình. Không còn tin vào thần quyền, không sợ những lời hăm dọa, phán quyết số phận mình từ thần linh, thầy bói. Khi gặp nghịch cảnh sẽ không đổ thừa tại ông trời, thượng đế, ông bà cha mẹ và cũng không than thân trách phận. Và đặc biệt, khi hiểu rõ nghiệp nhân là do chính chúng ta tạo ra thì khi gặp nghiệp quả ta cũng sẽ vui vẻ đón nhận, dù đó là quả ngọt hay quả đắng. Nhưng quan trọng, là chúng ta phải suy xét là mình đang gặt nghiệp quả hay đang tạo nghiệp nhân. Vì có một số người, trước bất cứ điều gì xảy đến đều buông xuôi và đổ thừa “tại nghiệp tôi nó như vậy”. Đức Phật dạy cho chúng ta giáo lý Nghiệp là để chúng ta làm chủ mình, vận mệnh do chính mình làm chủ. Như  trong kinh Pháp cú, câu 127:

“Không có ai làm cho ta ô nhiễm,

Không có ai làm cho ta thanh tịnh,

Chỉ có ta làm cho ta ô nhiễm,

Chỉ có ta làm cho ta thanh tịnh mà thôi”

Biết được nghiệp chi phối của đời của mình, vậy chúng ta bỏ những nghiệp ác và phấn đấu làm những nghiệp lành. Đối với những hành vi, lời nói, ý nghĩa và thấy được cái tác hại của việc tạo bất thiện nghiệp, để từ đó mọi người xây tạo nghiệp thiện, sống đúng luật đúng pháp. Trong hiện đời, chúng ta sẽ hoàn thiện nhân cách, cải hóa xã hội. Nếu mọi người trong xã hội đều sống trên nền tảng đạo đức, xã hội ấy sẽ đẹp đẽ biết bao, sẽ mãi không còn chiến tranh loạn lạc. Đồng thời hiểu nghiệp chính là yếu tố quyết định nơi chúng ta sẽ tái sinh ở đời sau, y báo và chánh báo của đời sống kế tiếp, muốn được làm người, muốn sanh lên cõi trời, muốn về Tây Phương Cực Lạc thì bản thân chúng ta gieo những nghiệp nhân thiện lành, luôn nỗ lực tu tập để mau chóng được giác ngộ, giải thoát.

CKẾT LUẬN

Nghiệp là giáo lý căn bản của Phật giáo, nó mở ra cho con người một hướng đi rất chủ động trong việc tạo nên một đời sống an lạc giải thoát. Hiểu được điều này, chúng ta nên tạo tác, nắm giữ tâm cho thiện pháp luôn luôn hiện hữu, phát huy thiện pháp đến mức tột cùng. Đó là tạo nghiệp nhân giải thoát một cách hay nhất, là con đường đi đến đạo quả vô thượng bồ đề. Đồng thời, xây dựng một nếp sống an lành cho mình và mọi người ngay trong cuộc sống hiện tại.

Chia sẻ
Phật học liên quan