Phật giáo và vai trò kiến tạo giá trị đạo đức trong phát triển bền vững tại Việt Nam
Vai trò kiến tạo giá tri đạo đức Phật giáo trong phát triển bền vững góp phần nâng cao lương tâm và nhận thức về đạo đức trong mối quan hệ cư xử hay hóa giải xung đột và kiến tạo hòa bình; hoặc thúc đẩy phát triển kinh tế và an sinh xã hội.
- Dẫn nhập
Đất nước thời hội nhập, có dấu hiệu rất đáng mừng khi cơ cấu thị trường và kinh tế đang trên đà phát triển. Tuy nhiên, chúng ta cũng đang đứng trước những thách thức rất lớn, vì giá trị đạo đức đang hồi suy giảm trước cạm bẫy, cám dỗ vật chất tầm thường của đời sống xã hội. Con người không còn giữ tâm hồn trong sáng, mọi hành vi của bản thân; không có lối sống tốt đẹp nâng lên thành văn hóa trong đối nhân xử thế, từ việc nhỏ đến việc lớn. Đặt biệt trong những năm gần đây, đạo đức xã hội có chiều hướng đang xuống cấp, điều này dấy lên làn sóng khiến cho mọi người lo ngại.
Người xưa có câu: “Cha mẹ sinh con, trời sinh tính” hoặc “Nhân chi sơ, tính bản thiện”, đó là kinh nghiệm đúc kết của ông cha ta từ bao đời nay; những giá trị tốt đẹp ngàn xưa đã trở thành truyền thống đạo đức, bản sắc dân tộc. Điều đó đã được giáo dục, lan tỏa và thấm sâu vào tâm hồn từng người Việt Nam, từ khi còn tấm bé, cho đến lúc trưởng thành; không chỉ dừng lại ở đó, mà sự giáo dục về truyền thống đạo đức còn được thể hiện qua ca dao, tục ngữ và ở những bài học đầu đời đối với mỗi người đó là: “Thờ cha, kính mẹ”, “Chị ngã em nâng”, “Anh em như thể chân tay”, “Trên kính dưới nhường”, “Bán anh em xa mua láng giềng gần”, “Bầu ơi thương lấy bí cùng/Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”, “Kính thầy yêu bạn”, “Cô giáo như mẹ hiền”, “Thấy người hoạn nạn cưu mang/Thấy người già yếu lại càng chăm nom”, “Nhiễu điều phủ lấy giá gương/Người trong một nước phải thương nhau cùng”… Nhưng thực tế hiện nay, tình trạng xuống cấp đạo đức ngày càng phổ biến, gia tăng, trầm trọng; sự xuất hiện ngày càng nhiều những hiện tượng bạo lực, cư xử thiếu văn hóa, coi thường pháp luật, đặc biệt sự hỗn láo, phản ứng tiêu cực trước sự nhắc nhở của thầy cô, người lớn… diễn ra trong một bộ phận học sinh, giới trẻ.
Gần đây một số tác giả, phóng viên các báo, các phương tiện truyền thông và nhiều bài phát biểu đã nêu lên sự xuống cấp của đạo đức xã hội, văn hóa ứng xử, thể hiện ở những hành vi bạo lực trong nhiều lĩnh vực khác nhau, từ bạo lực gia đình, bạo lực học đường, bạo lực nơi công cộng hay những hiện tượng, hành vi, vụ án, những vấn đề nổi lên trong thời gian gần đây. Chẳng hạn như, sự việc vỡ hụi, vỡ nợ; việc lừa đảo, bán hàng đa cấp; Hành vi rải đinh trên đường cao tốc; An toàn vệ sinh thực phẩm; hành vi hôi của; các vụ án thảm sát, giết nhiều người, cháu giết ông bà, con giết bố, vợ chồng giết nhau… ), ngoài ra có những người sẵn sàng dùng vũ khí “nóng”, vũ khí “lạnh” để giải quyết các mâu thuẫn trong mọi quan hệ , Nhiều trường hợp dẫn đến kết cục thật thương tâm. Đấy là những vấn đề làm ảnh hưởng và trực tiếp làm cho các giá trị văn hóa bị đảo lộn, đạo đức xã hội bị sói mòn. Cùng với nó là sự thay đổi về cơ cấu kinh tế, kết cấu xã hội và nhu cầu văn hóa của mọi tầng lớp dân cư tác động vào mọi mặt của đời sống xã hội.
Đứng trược thực trạng vấn đền đạo đức, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa”. Khi dạy về đạo đức Người cũng nói: Đạo đức là gốc của người cách mạng, muốn làm cách mạng phải lấy đạo đức làm gốc. vì trong mõi con người Đức là cơ sở của trí và tài, Đức làm cho tài hướng thiện, mà Đức và Tài kết hợp với nhau chính là cơ sở, niềm tin của dân chúng với Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN. Chủ tịch Hồ Chí Minh coi đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển con người, ví như gốc của cây, như ngọn nguồn của sông suối.
Do vậy chúng ta cần phải nghiêm túc xem xét lại, đâu là nguyên nhân? Đâu là những bước đi đúng đắn đưa đến trong phát triển bền vững?
- Vai trò kiến tạo giá trị đạo đức của Phật giáo trong phát triển bền vững
- Học thuyết về Duyên sinh
Cuộc sống này không phải chỉ có một mình ta đơn độc trong kiếp sống nhân sinh này, tất cả như là một chuỗi mắt xích tương quan, tương duyên với nhau, kẻ cho qua người giúp lại mà tạo nên sự thăng bằng cuộc sống. Từ loài người cho đến thiên nhiên, cỏ cây, hoa lá, đất trời, muôn vật cũng vậy. Không có một giây phút nào mà chúng ta không thọ nhận sự giúp đỡ từ những người khác.
Mọi người và mọi loài chung quanh đều là nguồn sống và có liên quan mật thiết với nhau để sinh tồn trong cuộc đời này. Con người và vạn vật tương duyên, tương sanh và liên hệ lẫn nhau rất mật thiết. Được cơm ăn, áo mặc, nhà ở, giao lưu về phương diện tinh thần hay vật chất đều có ảnh hưởng lẫn nhau. Vậy chúng ta luôn ý thức và bảo trọng từng ý nghĩ, lời nói và hành động sao cho thăng hoa hướng về chân thiện mỹ.
Một mình chúng ta không thể tự làm ra đủ mọi tiện nghi để dùng, như một người thì không thể làm nghề nông để có đủ thức ăn, không thể làm nghề thợ dệt để có đủ quần áo, chăn mền mặc khi ấm lạnh, không thể làm ra đủ thuốc thang để trị bệnh khi đau ốm, không thể có đủ kiến thức để bảo vệ sự sống với thiên nhiên. Mỗi người một công việc để chúng ta tạo nên một xã hội với đầy đủ những nhu cầu sống của con người. Tất cả đều có sự tương quan lẫn nhau, hỗ tương giúp đỡ lẫn nhau để cuộc sống được sinh tồn.
Trên thực tế, chúng ta không ngừng thọ dụng ân tình của mọi người. Chúng ta mang ơn của người lao công quét rác đêm thâu, để chúng ta có một môi trường lành mạnh để sống; ơn của người nông phu cày cấy để ta có hạt gạo trắng để ăn; ơn của người canh gác trên những khu phố đêm khuya lạnh lùng để ta có được giấc ngủ bình yên.
Tuy nhiên, cũng sẽ có người trả lời rằng: Ôi, họ làm, mình trả tiền sòng phẳng, có chi đâu mà ơn với nghĩa nhưng đứng về mặt sâu xa để nhận định một vấn đề, nếu như ta có tiền, nhưng không có người đi cày ruộng thì làm gì chúng ta có cơm để ăn, cho dù có tiền nhưng nếu không có người dệt vải thì liệu chúng ta có mua được áo để mặc… Trong cuộc sống, đồng tiền chỉ là vật tạm thời giúp ta trao đổi những vật cần dùng chứ không phải tiền là tất cả. Nếu họ làm việc cho ta nhưng lại không lấy tiền thế thì cuộc sống của họ lấy gì để ăn, để mặc, lấy gì để sống?
Không chỉ giới hạn ở con người mà luôn cả các loài động vật, thực vật chúng ta cũng luôn mang ơn chúng. Nếu thế giới này không có cây cỏ thì liệu chúng ta có sống được không? Cho nên việc ngăn cấm chặt đốn cây rừng và giết hại động vật bừa bãi là một điều cần thiết, chúng ta cần phải nghiêm cấm tối đa những vấn đề trên. Bởi thế giới động vật, thực vật và con người luôn hổ tương nhau mà tồn tại. Huỷ hoại thiên nhiên là huỷ hoại sự sống của chính mình.
Học thuyết về Duyên sinh của Phật giáo giúp cho mọi người nhận thức đúng đắn về bản ngã và và thế giới xung quanh, tức là xây dựng đạo đức yêu thương quan tâm, trên cơ sở biết rõ sự tồn tại của mỗi người đều có mối tương quan mật thiết đến mọi người và vạn vật chung quanh, như Trung Bộ Kinh 115, Bahudhatuka Sutta, đức Phật dạy:
Cái này có cái kia có/ cái này không cái kia không/ cái này sinh cái kia sinh/ cái này diệt cái kia diệt.
- Học thuyết về Nhân quả
Nhân quả là định luật phổ quát đã chi phối và tác động đến mọi sự vật, hiện tượng. Giáo lý nhân quả chú trọng đến vấn đề thiện ác, tức là vấn đề luân lý đạo đức của con người nói chung và của hàng Phật tử nói riêng. Trước hết, giáo lý nhân quả dạy con người thức tỉnh trong các hành động tạo tác của mình để xa lánh các việc ác và nỗ lực làm các việc lành nhằm đem lại sự an vui, thanh bình cho cuộc sống, như trong kinh Pháp Cú kệ 117 và 118, đức Phật dạy:
“Nếu người làm điều ác
Chớ tiếp tục làm thêm
Chớ ước muốn điều ác
Chứa ác tất chịu khổ”
“Nếu người làm điều thiện
Nên tiếp tục làm thêm
Hãy ước muốn điều thiện
Chứa thiện, được an lạc.”
Đức Phật dạy rằng: “Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp” (Tăng Chi II, HT Thích Minh Châu, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, 1982, tr.101). Do đó, không thể quy ước giáo lý nhân quả - tức luân lý đạo đức Phật giáo theo khuôn mẫu ước lệ như luật pháp được ban hành trong xã hội. Chẳng hạn, một người phạm tội, luật pháp sẽ trừng phạt y khi hành vi phạm tội được xác định. Nghĩa là y đã thực hiện điều tội lỗi. Trong khi, với đạo đức và luân lý, anh ta sẽ có tội ngay khi những ý niệm tội lỗi (xấu ác) phát sinh trong tâm của y, mặc dù đó chỉ là ý niệm chứ chưa phải là hành vi. Do đó, trách nhiệm cá nhân theo giáo lý nhân quả, ở đây, là trách nhiệm cao nhất đối với thái độ tâm lý đạo đức của mỗi con người, mà không phải là trách nhiệm theo quy ước luật pháp trong xã hội.
Trong một số trường hợp, những người khôn ngoan có thể chạy trốn pháp luật, nhưng với luân lý đạo đức, họ không thể chạy trốn lương tâm của chính mình. Vì thế, nếu đứng trên phương diện giáo dục, giáo lý nhân quả thực là một phương pháp giáo dục vô cùng lành mạnh và tích cực. Vì ngay từ đầu, tinh thần nhân quả đã chú trọng con người, đưa con người về với chính mình, con người phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về những tư duy và hành động của chính họ. Thiên đường hay địa ngục, hạnh phúc hay khổ đau là do mình tự tạo cho mình, không có ai làm cho ta thanh tịnh, không có ai làm cho ta ô nhiễm, mà ô nhiễm hay thanh tịnh là chính ta quyết định. Ở đây không hề có một sự trừng phạt hay ban thưởng nào, cũng không hề có một đấng thần linh hay Thượng đế nào ban phước giáng họa cho chúng ta cả. Kinh Pháp Cú 165, đức Phật dạy:
“Tự mình làm điều ác
Tự mình làm ô nhiễm
Tự mình ác không làm
Tự mình làm thanh tịnh
Tịnh không tịnh tự mình
Không ai thanh tịnh ai”.
Bài Pháp Cú này đức Phật dạy dựa trên đạo lý nhân quả, dạy con người thức tỉnh trong các hành động tạo tác của mình để xa lánh các việc ác và nỗ lực làm các việc lành nhằm đem lại sự an vui, hạnh phúc cho cuộc sống. Một nền luân lý đạo đức như thế, nhân bản và tích cực như thế, trí tuệ và đầy tình người như thế, nếu được áp dụng vào mỗi con người, gia đình, học đường và xã hội, ắt hẳn sẽ đưa đến một cuộc sống an lạc, hạnh phúc.
Nhân quả có vị trí rất quan trọng trong việc giải thích sự khác biệt ở mỗi con người, và sự thiết lập nên một nền tảng đạo đức luân lý Phật giáo rất nhân bản và tích cực. Nhân quả theo Phật giáo không phải là định mệnh, cũng không mang tính chất tiền định cố hữu. Bởi lẽ, sự hiện hữu của con người không đơn giản chỉ tùy thuộc vào các nhân đã gieo trong đời sống quá khứ, mà nó còn tùy thuộc ngay nơi các hành động (nghiệp mới) tạo tác trong hiện tại. Điều này cũng khai phóng cho con người một lối đi năng động, tích cực để vượt qua mọi trở ngại của nghiệp quả, thậm chí có thể chấm dứt dòng sinh tử khổ đau ngay tại cuộc đời này.
Trong kinh điển, có nói về nhân quả xuất thế gian, nhưng thực ra, nếu ngay tại thế gian này mà phiền não, lậu hoặc đã được đoạn tận thì xuất thế chính là tại thế, cũng như hoa sen đã vươn lên khỏi mặt nước và nở rộ giữa hư không vô tận.
Giáo lý nhân quả đặc biệt hướng dẫn con người đi vào cuộc sống nhân cách đạo đức, để xứng danh là người thức tỉnh theo quan điểm đạo Phật.
a. Chủ động, tích cực, tự tin
Tin nhân quả làm chúng ta an tâm. Tự tin vào chính bản thân mình, là khẳng định chủ quyền. Chính tự bản thân mình là người quyết định cuộc đời mình, là người thợ tự xây dựng đời mình, mình làm mình chịu, không bao giờ sai lệch. Mình có quyền cải tạo đời sống của mình. Vì vậy, mình phải tin vào bản thân mình là làm những điều thiện để được hưởng đời sống an vui hạnh phúc. Lòng tự tin chính là sức mạnh vô cùng qúy báu, làm cho con người dám hoạt động, dám hy sinh hăng hái làm điều tốt.
b. Tự do và bình đẳng
Đem lại công bằng, bình đẳng tuyệt đối cho chúng sanh, khơi nguồn trí tuệ và từ bi trong tâm thức của mỗi người. Chúng ta phải tin vào nhân quả, nếu đời trước chúng ta đã tạo nhiều nhân lành thì đời này sẽ gặt được quả tốt. Khi chúng ta biết được gieo nhân lành thì hưởng quả tốt, từ đó luôn ý thức hành động và việc làm của mình, dù gặp hoàn cảnh khó khăn nào cũng không nản chí, quyết tâm diệt trừ nghiệp chướng, tạo nhân tốt, có trách nhiệm và bổn phận với chính bản thân mình, gia đình và xã hội.
c. Tránh mê tín dị đoan
Hành vi mê tín bắt nguồn từ sự thiếu vắng niềm tin. Phật giáo cho rằng ngày ngày đều là những ngày tốt, giờ giờ đều là những giờ đẹp, chỉ cần phù hợp với chính lý nhân quả thì không có gì đáng cữ kiêng.
d. Làm việc gì cũng phải nghĩ đến hậu quả của nó
Trong kinh Phật thường có câu: “Bồ tát sợ nhân, chúng sanh sợ quả” vì các Bồ tát đã thấy được nguyên nhân của bao tội ác nên đã ngăn ngừa và giữ gìn thân khẩu ý không gây tạo nghiệp ác, còn chúng sanh thì ngược lại, không biết giữ thân khẩu ý, tha hồ tạo tội, sát, đạo, dâm… đến khi chịu quả báo khổ đau mới hối hận thì đã muộn màng. Do đó, “Trước khi làm việc gì cũng phải nghĩ đến hậu quả của nó”. Đó là bài học ngàn vàng mà tất cả chúng ta đều phải xem nó là hành trang bên mình trong cuộc sống hàng ngày. Khi chúng ta làm một việc gì, nói một lời gì, cũng nên nghĩ trước kết quả tốt hay xấu của nó, chứ đừng làm liều, nói liều, rồi phải chịu hậu quả đau khổ. Nếu chúng ta làm được như thế, thì chúng ta sẽ thấy tánh tình và hành vi của chúng ta, mỗi ngày mỗi cải tiến, các việc sai quấy sẽ giảm bớt, các việc lành càng thêm tăng trưởng.
e. Nhân quả liên quan đến vấn đề giáo dục và đạo đức nhân sinh
Nhân quả là một định luật tự nhiên của vũ trụ, hễ gây nhân thì có quả, nhân tốt thì quả tốt, nhân xấu thì quả xấu. Chính vì thế mà nhân quả liên quan đến vấn đề giáo dục và đạo đức con người. Người tin sâu vào luật nhân quả thì không bao giờ dám làm điều gì sai trái ảnh hưởng đến bản thân và người khác. Đó chính là nền tảng của giáo dục hướng thượng cho con người, định hướng con đường phía trước nên và không nên làm gì. Đồng thời, khuyến khích con người hành thiện để chuẩn bị cho tương lai tốt đẹp, giúp cho con người có ý thức trách nhiệm với tư duy và hành động của mình, nhờ đó con người lánh xa mọi điều xấu, tự nguyện làm các hạnh lành theo hướng ly tham, ly sân, ly si, không ganh ghét, không đố kỵ, không gây tổn hại.
Giáo lý nhân quả, với tinh thần giáo dục đạo đức con người tự có trách nhiệm với bản thân, không đổ lỗi cho hoàn cảnh, không chạy trốn, không cầu xin, phải biết chuyển hóa tự thân. Nhân quả là một phương pháp giáo dục vô cùng lành mạnh và tích cực, được xây dựng trên tinh thần tự giác, tự nguyện. Do đó, nếu vấn đề này được áp dụng vào mỗi con người, gia đình, học đường và xã hội, ắt hẳn sẽ đưa đến cuộc sống an lạc, hạnh phúc.
f. Nhân quả còn là tiến trình tu tập giải thoát
Chúng ta thấy rằng nhân quả là một vấn đề vi tế khó nghĩ bàn, vô cùng phức tạp, nhỏ nhiệm sâu kín, trùng điệp, chằng chịt, nó thông suốt ba đời, mà chỉ có tuệ giác của Thế Tôn mới thấu suốt triệt để. Trong kinh Tăng Chi I, đức Phật dạy: “Có bốn phạm trù không thể tư duy: Phật giới, thế giới của tâm, thiền định của người tu thiền và quả dị thục của nghiệp". Tuy vậy, chúng ta cũng có thể nêu ra một số dẫn chứng về nhân quả tương ứng qua các kinh điển như kinh Ðịa Tạng, kinh Nhân Quả Thiện Ác, kinh Nikàya... Đức Phật dạy, từ nhân địa tu hành chứng đắc quả vị qua từng cấp độ khác nhau như:
- Tu Năm giới, biết bố thí, cúng dường sẽ được tái sanh làm người.
- Tu Mười thiện nghiệp là nhân để sanh Thiên.
- Tu Bốn diệu đế thì sẽ được đắc quả Thanh văn.
- Tu Mười hai nhân duyên được quả Duyên giác.
- Tu Sáu Độ chứng quả Bồ tát, Phật…
Khi thông suốt được giá trị của nhân quả sẽ vạch ra cho mọi người đường lối để đi đến an lạc giải thoát ngay trong hiện tại cũng như trong tương lai. Đồng thời, đây cũng là con đường cho tất cả những ai có ước nguyện muốn bước lên bậc Thánh, Phật… Để hướng đến mục tiêu hạnh phúc thật sự, con người tự rèn luyện cho mình hạnh nhẫn nhục, vững niềm tin trước mọi hành động, không phó mặc rủi may, không ỷ lại một cách mù quáng.
Hằng ngày chúng ta phải thường “Hồi quang phản chiếu” trở lại với chính mình. Bằng khả năng hành trì tu tập tinh tấn của mình, để vươn lên đọan trừ các điều ác, thực hành các điều thiện, thanh lọc tự thân, theo con đường Giới Định Tuệ, làm chủ thân tâm và hoàn cảnh, nhất định sẽ thành tựu trí huệ giải thoát.
“Dục tri tiền thế nhân,
Kim sanh thọ giả thị
Dục tri lai hế quả,
Kim sanh tác giả thị”
Nghĩa là:
Muốn biết nhân đời trước,
Phải nhìn quả hiện tại
Muốn biết quả đời sau,
Phải nhìn nhân hiện tại.
Muốn có quả báo tốt đẹp thì tự thân chúng ta phải tạo ra cảnh thuận duyên để tránh quả báo xấu. “Ví như Đề Bà Đạt Đa luôn tìm cách hại Phật để thống lãnh Tăng đoàn, nhưng chính đức Phật cũng phải nhờ vào nghịch duyên do Đề Bà Đạt Đa đem đến, để thực hành hạnh tu nhẫn nhục, xả bỏ mọi hận thù, do đó sớm chứng quả vị Phật.” Hiểu được như vậy thì chúng ta phải tự phấn đấu để vượt qua mọi khó khăn trong tu hành cũng như trong cuộc sống. Ai cảm nhận được hạnh phúc ở trong khổ đau thì người ấy mới thật là người có trí cầu tiến.
- Học thuyết về Nghiệp
Chữ nghiệp dịch từ chữ Phạn Karma, có nghĩa là hành động có tác ý của thân, khẩu, ý. Tư tưởng, lời nói hay việc làm thường do ý muốn thúc đẩy, làm động lực cho hành động, Phật giáo gọi ý muốn thúc đẩy ấy là tác ý. Tất cả những hành động có tác ý, dầu biểu hiện do thân, khẩu, và ý, dù thiện hay bất thiện đều tạo nghiệp. Những hành động không cố ý, không có chủ tâm, mặc dầu đã biểu hiện bằng lời nói hay việc làm đều không tạo nghiệp. Như vậy, sự cố ý hay tác ý là yếu tố quan trọng để tạo nghiệp.
Theo luật nhân quả, hễ có nhân thì có quả và quả lại làm nhân để tạo ra quả khác. Nhân quả đắp đổi nhau và tiếp nối mãi không dứt. Trong phạm vi con người, bất luận tạo ra hành động nào, bằng thân, khẩu, ý đều gọi là nghiệp. Nghiệp nhân ấy được gieo vào ruộng tiềm thức và trưởng thành dần, khi đủ cơ duyên thì nó kết thành quả, phát lộ ra bên ngoài thì gọi là nghiệp quả hay nghiệp báo. Và nghiệp quả này lại gieo vào tàng thức để làm nghiệp nhân cho nghiệp quả về sau. Tàng thức chất chứa, nuôi dưỡng tất cả những nghiệp nhân và quả ấy. Nó sẽ trở thành nghiệp thiện nếu những nghiệp nhân và quả của người hành động đều thiện; trở thành nghiệp ác nếu nghiệp nhân và quả của người ấy đều ác; hay nửa thiện nửa ác nếu nghiệp nhân và quả của người ấy có thiện có ác. Cũng như một miếng đất, nếu ta gieo bắp thì sẽ có một miếng đất toàn bắp, nếu ta gieo đậu thì sẽ có một miếng đất toàn đậu, còn nếu khi ta vừa trồng bắp, vừa trồng đậu thì ta sẽ có một miếng đất bắp đậu lẫn lộn.
Theo lời đức Phật dạy, tất cả nghiệp quả (của vô lượng kiếp quá khứ) đã tập trung vào thân năm uẩn này rồi, vấn đề còn lại là hành vi tạo tác (xúc) giữa thân căn và thế giới, nói cụ thể là những nghiệp mới được tạo tác thông qua sự giao tiếp giữa 6 căn, 6 trần để ý thức (hay 6 thức) cảm thọ vui, buồn, khổ, lạc hoặc không khổ, không lạc mà thôi. Từ đó, lối đi của giải thoát chân thực, thực sự không phải là nghiệp quả của năm uẩn, mà chính là hành vi tạo tác của năm uẩn. Cho đến khi nào chúng ta ngộ được rằng năm uẩn là vô ngã, chúng không có tự tánh và không còn tham ái và chấp thủ năm uẩn là ta, là của ta, là tự ngã của ta; ngay lúc đó, nhân quả - nghiệp báo sẽ không còn hiện hữu.
Như thế, nói đến nghiệp là nói đến nghiệp thiện, nghiệp ác và nghiệp vô ký. Nghiệp do vô minh sanh ra thì quả báo sẽ là đau khổ. Nếu nghiệp được bắt nguồn từ trí tuệ chơn như thì nghiệp báo sẽ là cảnh giới an lành. Cho thấy, sự tương quan đưa đến nghiệp báo đều dựa trên cơ sở nhân quả rõ rệt. Đức Phật dạy: “Này các thầy Tỳ kheo, Như Lai nói rằng, tác ý là nghiệp. Do có ý muốn mới có hành động bằng thân, khẩu hay ý.” (Thích Minh Châu dịch (1996), Tăng Chi Bộ Kinh, III, VNCPHVN, tr 415). Tác ý bắt nguồn sâu xa trong vô minh và ái dục. Còn vô minh, còn ái dục, còn ham muốn thì mọi hành động, lời nói, tư tưởng đều là nghiệp. Và trong sự báo ứng của nghiệp thì tâm thức con người là yếu tố quan trọng. Như trong kinh Pháp cú 1 và 2, đức Phật dạy:
“Ý dẫn đầu các pháp
Ý làm chủ tạo tác
Nếu với ý ô nhiễm
Nói lên hay hành động
Khổ não bước theo sau
Như xe chân vật kéo
Ý dẫn đầu các pháp
Ý làm chủ tạo tác
Nếu với ý thanh tịnh
An lạc bước theo sau
Như bóng không rời hình.”
Đối với chư Phật và chư vị A-la-hán đã diệt tận vô minh và ái dục là hai nguồn gốc của nghiệp, các Ngài không còn tạo nghiệp nữa. Các Ngài đã vượt ra khỏi thiện và ác, chính vì vậy, hành động của chư Phật và A-la-hán gọi là Duy tác. Như vậy, tất cả những hành động có tác ý, dù biểu hiện bằng thân, khẩu, hay ý đều tạo nghiệp. Nghiệp được hiểu một cách đầy đủ và trọn vẹn đó chính là nghiệp báo. Trong đó nghiệp là nhân, báo là quả, có nhân thì sẽ có quả.
a. Nghiệp dẫn chúng sanh luân hồi
Kinh Trung Bộ III, trang 135, đức Phật dạy: “Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sinh ra.”
Từ lời dạy trên chúng ta thấy, chúng sanh bị nghiệp lực chi phối nên mới bị trôi dạt trong biển khổ luân hồi, sanh tử vô tận, và nguyên nhân chính của nó là do ‘nghiệp’. Vậy ‘nghiệp’ luôn có mặt cùng với sự có mặt của con người. Và sau khi chết, thân xác này hư hoại, và nghiệp vẫn cứ tiếp tục trôi lăn theo dòng trầm luân của nó. Hoặc thiện nghiệp, hoặc ác nghiệp. Nhưng nghiệp không phải là linh hồn bất tử để nối kết các kiếp sống, vì bản thân nó là ‘vô ngã’. Tuy nhiên, “Chính nghiệp là cơ sở, là trung tâm điểm, để qua đó vòng luân hồi xoay chuyển”.
Vậy, nghiệp là gì? Nghiệp (karma) là hành động có tác ý, hay hành động được phát sinh từ tâm. Thông qua việc làm của thân, miệng, và ý mà nghiệp được hình thành. Chẳng hạn như ta lấy trộm của người thuộc về thân nghiệp, dùng miệng chửi mắng người thuộc về khẩu nghiệp, khởi ý muốn chửi mắng người, muốn lấy trộm của người thuộc về ý nghiệp. Tất cả đều gây nên tội, phải chịu quả báo luân hồi.
Thật vậy, nói đến nghiệp là nói đến tương quan nhân quả của 12 nhân duyên (Vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão, tử). Chính 12 vòng mắt xích này liên kết, thúc đẩy chúng sanh tạo nghiệp, chịu khổ luân hồi trong ba cõi, sáu đường. Và trong mối tương quan đó, động cơ chính để kiến tạo nên nghiệp là “Tham, sân, si” (ác nghiệp) và ngược lại là không tham, không sân, không si (thiện nghiệp). Từ đây, chúng ta thấy rõ ràng, chính tâm ý của mình là cơ sở để tạo nên nghiệp của mỗi người.
Kinh Nhân Quả nói:
“Dục tri tiền thế nhân
Kim sanh thọ giả thị
Dục tri lai thế quả
Kim sanh tác giả thị”
Nghĩa là:
“Muốn biết nhân đời trước
Xem hiện tại thọ quả nào
Muốn biết quả đời sau
Xem hiện tại tạo nhân gì”
b. Khả năng của nghiệp
Nghiệp là cái không có hình tướng mà có khả năng đáng kể. Ví như gió, tuy không thấy hình tướng mà gió thổi đất, nước đều lung lay. Nghiệp cũng thế, bình thường chúng ta không thấy nó, mà nó lôi chúng ta đi khắp nẻo luân hồi. Sở dĩ nó có khả năng mạnh mẽ như vậy là do tập quán lâu ngày. Như người tập hút thuốc, buổi đầu khói thuốc chỉ cảm thấy khó chịu, nhưng tập lâu ngày thành ghiền, khi nghiện rồi giá nào cũng phải tìm cho có. Thử hỏi cái ghiền ấy hình tướng ra sao, mà điều khiển con người một cách mãnh liệt như thế? Quả thật không ai biết tướng mạo của nó, nhưng khi nó đòi hỏi, người ta phải chạy ngược chạy xuôi tìm ra thuốc hút.
Chúng ta thử đặt câu hỏi, ai đem bệnh ghiền đó đến cho ta? Chính chúng ta tự tập, tập lâu thành ghiền, cái ghiền ấy do mình tạo nên mình chịu. Cái ghiền ấy có ma lực gì mà đày đọa hành hạ con người đến thế? Thật ra, chẳng có ma lực gì cả, chẳng qua tập lâu thành thói quen, thói quen càng lâu sức càng mạnh. Đã tự chúng ta tập thành bệnh, khi muốn hết bệnh cũng tự chúng ta bỏ nó, không ai có thể bỏ thế cho chúng ta.
Khả năng của bệnh ghiền giống như của bệnh nghiệp chi phối chúng ta trong lục đạo luân hồi. Tự chúng ta tạo nghiệp lành hoặc nghiệp dữ. Tạo càng lâu thì sức mạnh càng nhiều, đến cuối cùng chúng chi phối, dẫn dắt chúng ta đi vào con đường lành hay dữ, tùy chỗ gây tạo của mình. “Không phải do ai đày đọa, không phải thượng đế bày ra, chính chúng ta tự tạo rồi tự thọ”. Khi đã thành nghiệp, chúng ta khó cưỡng được nó.
Thế nên, biết chọn nghiệp lành để tạo, là đã tự gây một sức mạnh đưa mình đến cõi lành. Chúng ta gây nghiệp ác, thì càng tạo, áp lực càng lôi mình vào cõi dữ. Chính đây là quyền lựa chọn của con người, quyền định đoạt số phận ở mai sau.
Do đó, nói đến khả năng của nghiệp, cũng chính là khả năng của chúng ta, nghiệp và chúng ta không phải là hai. “Nếu chúng ta khôn ngoan, khéo léo lo tạo nghiệp lành, hoặc dại khờ ngu muội gây tạo nghiệp ác. Khổ vui sẽ tùy nghiệp mà đến với chúng ta một cách chân thành”.
Bởi thế cho nên, con người là kẻ quyết định cái nghiệp của mình, và cũng chính con người là kẻ duy nhất có thể giải thoát mọi nghiệp lực của mình, đi ra khỏi vòng luân hồi – tái sinh.
Kinh Đại Duyên, số 15, Trường Bộ I, đức Phật dạy: "Này Ānanda, chính vì không giác ngộ, không thâm hiểu giáo pháp này mà chúng sanh hiện tại bị rối loạn như một ổ kén, rối ren như một ống chỉ, không thể nào ra khỏi khổ xứ, ác thú, đọa xứ, sanh tử."
Nghiên cứu, học hỏi và hiểu biết đúng đắn về giáo lý nghiệp báo sẽ mang lại nhiều lợi ích và những bài học kinh nghiệm trong cuộc đời. Chính giáo lý nghiệp báo đem lại cho người Phật tử niềm hy vọng, chỗ nương tựa và sự khích lệ tinh thần để can đảm vững bước trên con đường hoàn thiện nhân cách, đạo đức và tâm linh của mình. Niềm tin nơi nghiệp báo sẽ nâng cao giá trị của con người, kích thích lòng nhiệt thành và sự tinh tấn, vì người Phật tử tự biết rằng, mỗi chúng ta phải lãnh lấy trách nhiệm của chính mình. Chúng ta là vị kiến trúc sư kiến thiết nên số phận của đời ta, chính ta tạo thiên đàng hay địa ngục cho ta; đau khổ hay hạnh phúc, thanh tịnh hay ô nhiễm cũng đều do nơi hành động tự thân của ta. Người Phật tử phải luôn luôn khắc cốt ghi tâm lời dạy của bậc Đạo sư đã dạy để làm hành trang cho đời mình như trong kinh Pháp Cú 165:
“Tự mình làm điều ác,
Tự mình làm ô nhiễm.
Tự mình ác không làm,
Tự mình làm thanh tịnh.
Tịnh thanh tịnh tự mình,
Không ai thanh tịnh ai.”
Chúng ta biết rằng, những gì mình suy nghĩ, nói năng hay hành động với sự cố ý thì sẽ tạo ra nghiệp, và chính nghiệp lực ấy đưa ta lên hay xuống từ kiếp này hay kiếp khác, mãi mãi trong vòng luân hồi. Mỗi khi hiểu rõ ràng định luật nghiệp báo, người Phật tử không bao giờ tin vào định mệnh, không tin vào một đấng siêu nhiên, thần quyền hay thượng đế nào có thể quyết định số phận của ta. Người Phật tử không bao giờ van vái cầu xin được cứu rỗi. Trái lại, họ đặt trọn niềm tin vào chính mình, vào sự tinh tấn của mình để tự giải thoát, đó là hình ảnh hết sức đẹp và đầy sống động của một người Phật tử trong giáo pháp của Phật, như bài kệ Pháp Cú số 29 đã dạy:
“Tinh cần giữa phóng dật,
Tỉnh thức giữa quần mê
Người trí như ngựa phi
Bỏ sau con ngựa hèn.”
Nếu không biết tu tập, gây tạo nghiệp ác, thì sẽ mắc phải những quả báo như sau:
- Sát sanh, trộm cướp phải bị đọa địa ngục.
- Tham lam bỏn sẻn thì phải làm ngạ quỷ.
- Tà dâm làm súc sanh.
- Tham lam, đoạt tài sản của người thì quả là rơi vào ngạ quỷ.
- Nếu đa dâm, sẽ thác sinh làm chim sẻ, bồ câu, uyên ương...
- Đa si (quá si mê), sẽ thác làm lợn, dê...
- Đa kiêu mạn, phóng dật, sẽ thác sinh làm hổ, sói...
- Lòng dạ hiểm độc sẽ thác sinh làm rắn rít
- Hay trêu ghẹo, đời sau sinh vào khỉ, vượn...
Trong đời sống, ta cứ tạo tác theo chiều bản năng, đó là ta tự buộc sợi dây nghiệp thức vào cổ mình, để rồi theo chiều sanh tử cứ luân hồi mãi không dứt. Cứ như thế mà ta trôi dạt thênh thang trong sáu cõi. Để chấm dứt khổ lụy tái sanh, ta phải biết tu tập xả ly, chấm dứt mọi nghiệp ác, có như vậy mới mong thoát ly sanh tử luân hồi.
Chính sự hiểu biết giáo lý nghiệp báo nên người Phật tử luôn luôn mở rộng tình thương, tha thứ và cảm thông đối với mọi người xung quanh. Chúng ta không lên án kẻ hư hèn tội lỗi, bởi vì mọi người đều có khả năng và cơ hội để tự cải thiện lấy chính bản thân của họ khi cơ duyên đầy đủ. Hiện tại có những người xấu xa, đau khổ… nhưng chúng ta hy vọng rằng, trong một lúc nào đó, họ cũng có thể trở thành người tốt, an vui, hạnh phúc và có thể đạt được giải thoát tối thượng.
Như vậy, giáo lý nghiệp báo giúp con người bình tĩnh sáng suốt, biết nhận lấy trách nhiệm của mình. Từ đó họ luôn luôn thận trọng trong từng cử chỉ, lời ăn tiếng nói và trong suy nghĩ của họ. Giáo lý nghiệp báo có thể giúp nhân loại có cái nhìn khách quan về cuộc đời và tạo nền tảng cho một nền đạo đức nhân bản: "Không làm khổ mình, không làm khổ người khác”, nếu họ muốn xây dựng nếp sống gia đình hạnh phúc, xã hội công bằng, một thế giới hòa bình văn minh và thịnh vượng. Giáo lý nghiệp báo nếu được giảng dạy cho các học sinh và cho cả mọi người thì nó sẽ mang lại lợi ích rất lớn trong việc định hướng hành động, lí tưởng và ước mơ của họ trong cuộc sống, giúp họ có hướng đi sáng đẹp trong cuộc đời, vượt qua được những cám dỗ, những tệ nạn xã hội của nền văn minh vật chất hôm nay.
- Học thuyết về Tam pháp ấn
Giáo lý Tam pháp ấn giúp cho chúng ta nhận thức và hiểu rõ bản chất của thế giới hiện tượng là vô thường, khổ và vô ngã. Giáo lý vô thường đem lại cho con người niềm tinh, nỗ lực sáng tạo và phát triển khả năng tu tập để trở về với chơn thường. Dấu ấn thứ hai là khổ, vì nhờ nhận thức cuộc đời là khổ để từ bỏ mọi dục lạc, say đắm, chấm dứt mọi ràng buộc khổ đau. Còn vô ngã là tính không đồng nhất khi một cái gì đó do duyên thay đổi thì nó không có tính cách đồng nhất, do đó nó là vô ngã. Nhưng trong thực tại, vô thường cũng chính là vô ngã. Như vậy, Tam pháp ấn chính là chìa khóa giúp cho chúng ta thoát khỏi khổ đau sanh tử luân hồi.
Với ưu tư lớn nhất đối với người tu tập là làm sao tìm được sự an tịnh nội tâm trong cuộc sống. Mọi phương pháp hành trì trong đạo Phật đều có định hướng đưa người tu tập vượt khỏi khổ đau. Thì giáo lý Tam pháp ấn có xu hướng giáo dục con người sống có lý tưởng, vì lợi ích cho tự thân và tha nhân, giúp cho nhân loại nhận thức đúng đắn với thực tại về mối liên hệ giữa cá nhân và cộng đồng, giữa xã hội và môi trường chung quanh. Với cái nhìn vô ngã sẽ giúp cho con người phát triển đức tính khiêm cung, biết tôn trọng, tha thứ và yêu thương, không bảo thủ, không ích kỷ tham lam. Nhờ thấy được thật tướng của vạn sự, vạn vật, giúp con người thoát khỏi mê tín và xóa bỏ tư duy hữu ngã, cố chấp vốn từ lâu ngự trị trong nhận thức về đời sống của nhân loại, đồng thời thiết lập một ý thức hệ nhân bản tiến bộ, một nhân sinh quan đúng đắn phù hợp với chân lý.
Vô thường, khổ và vô ngã là ba đặc tính trọng yếu của giáo pháp. Mỗi pháp ấn có vai trò và chức năng khác nhau để nhận diện chánh pháp. Tuy nhiên, dưới tuệ giác duyên khởi thì ba pháp ấn có quan hệ tương tức, hỗ tương gắn bó chặt chẽ với nhau. Trong dấu ấn vô thường vốn hàm chứa dấu ấn của khổ và vô ngã. Trong hai dấu ấn còn lại cũng tương tự như thế. Giáo lý Tam pháp ấn ngoài chức năng thẩm định chánh pháp còn cung cấp tuệ giác để soi chiếu thực tại nhằm phá tan mê mờ, tham ái, tà kiến để vượt thoát mọi chấp thủ khổ đau, đạt đến bình an, giải thoát. Lúc nào con người liễu tri thế giới hiện tượng và chúng sanh vốn dĩ vô thường và vô ngã thì khi ấy khổ đau được diệt trừ.
Chúng ta cần nhận thức đúng về ba pháp ấn để thẩm định kinh điển và nhất là ứng dụng trong tu tập quán chiếu về năm uẩn. Mọi khổ đau của chúng sanh đều bắt nguồn từ những ràng buộc, chấp thủ do quan niệm sai lầm về một cái ngã thường tại, bất biến, vĩnh cửu. ‘Tôi’ và ‘của tôi’ là nguyên nhân dẫn đến đau khổ của nhân loại. Vì thế, giáo lý Tam pháp ấn là chìa khóa để mở cửa giải thoát, làm nền tảng cho sự chuyển hóa phiền não, thành tựu tuệ giác và thăng hoa tâm linh.
Khi nói về vô thường, nhiều người lại cho rằng: Vô thường là khổ đau. Bởi chúng ta có cách nhìn không đúng sự thật về vô thường, từ đó sanh ra chấp thủ về ngã và pháp, trái với quy luật biến hóa sinh diệt của cuộc đời. Đó mới chính là khổ đau. Ba khuôn dấu vô thường, khổ và vô ngã là những nguyên lý cơ bản nhằm xác định chánh pháp, tái thẩm định các lý thuyết, quan điểm và cả pháp môn tu tập của Phật giáo. Mặc dầu kinh điển Phật giáo cực kỳ đa dạng, song tư tưởng hàm chứa trong các kinh điển ấy vẫn không ngoài quỹ đạo của Ba pháp ấn.
- Những phương cách thực hiện
- Sám hối
a. Ý thức tội lỗi
Đối với lỗi lầm mà ta gây ra cho người khác, trước khi muốn thể hiện sự ăn năn hối cải, ta hãy nên tự hỏi mình đã thật sự nhìn ra lầm lỗi chưa và tại sao mình lại hành xử tệ lậu như vậy? Trong thâm sâu của cõi lòng, trong nội tâm, chúng ta thấy mình có lỗi, nhận ra tội lỗi của mình. Chúng ta phán xét chính mình, nhận điều xấu mình đã làm, hay cái tâm địa xấu xa của mình. Và ý thức rõ rằng, chính những điều sai quấy mà mình tạo ra đó là mình vừa gieo một nhân xấu, nhân đó trở lại làm tổn hại thân tâm mình. Bởi vì, nhân quả không sai chạy, ta gieo nhân gì ta gặt quả đó. Đối với nhiều người, bước đầu tiên này đã là khó. Nhiều người trong thời đại hôm nay dù đã làm bao nhiêu điều xấu, vẫn không thấy mình có tội. Họ đã đánh mất ý thức tội lỗi, và đó là nguy cơ lớn nhất của nhân loại ngày nay.
Từ sự ý thức lỗi lầm, nhân quả như vậy, bước tiếp theo là chúng ta sinh lòng sợ hãi, tự biết có nhân xấu ắt cảm quả xấu, có sợ hãi thì việc sám hối mới chí thành chí thiết.
b. Khởi tâm tàm quý, hối hận, ray rứt về những điều xấu mình đã làm
Sám hối đúng ý nghĩa của nó phải có đủ tâm hổ thẹn và cầu tiến. Vì hổ thẹn, chúng ta không thể chứa chấp tội lỗi mãi, cần thành tâm sám hối rồi mới an ổn. Với tinh thần cầu tiến, chúng ta phải sám hối khi không phải bị ai bắt buộc, chỉ do tâm hổ thẹn thúc đẩy, chí dứt khoát những lỗi lầm đã qua bằng cách sám hối, để vui vẻ tiến lên con đường đạo đức. Có thế, sự tu hành tinh tấn không bị chướng ngại. Bởi hổ thẹn và mong mỏi vươn lên, sau khi sám hối, chúng ta tuyệt đối không để tái phạm những lỗi cũ. Chí thành tha thiết sám hối. Lòng chí thành tha thiết sẽ giúp chúng ta sạch hết mọi tội lỗi.
Tàm là hổ thẹn với mình, quý là hổ thẹn với người, xấu vì sự sai lầm của mình, hổ thẹn với sự trong sạch của nhân cách mỗi người. Tâm có ray rứt, hối hận, ta mới sinh lòng xấu hổ, đau đớn mà sửa đổi hành vi của mình được. Sự đau buồn này là một liều thuốc đắng, chữa lành cho vết thương tội lỗi. Sự ăn năn phản tỉnh của một con người sau khi đã lỡ làm điều xấu, sẽ làm cho người đó trở nên tốt hơn, sâu sắc hơn.
c. Tìm một phương pháp để sám hối, sửa đổi lỗi lầm
Đây là bước đi rất quan trọng, phương pháp ấy phải đúng, hợp với mình và hợp với cảnh, với đối tượng mà mình đang hướng đến để sám hối.
d. Quyết tâm thú nhận tội lỗi, hay còn gọi là phát lồ
Ví như tội ác đã làm, hoặc tự biết hoặc chẳng biết, hoặc vô tâm hoặc cố ý… đã tạo ra tội thì phải đối trước Tam Bảo, hoặc đối trước thiện tri thức, thành thật tỏ bày cầu xin sám hối. Tinh thần sám hối buộc chúng ta phải thành khẩn thiết tha, hổ thẹn cầu tiến, vạch trần những lỗi lầm đã làm, cầu xin sám hối. Vì vậy, khi sám hối đương sự phải cần cầu tha thiết, lời lẽ trình bày chân thành rành rõ thiết yếu, phát nguyện chừa cải một cách mạnh dạn, mới đúng ý nghĩa sám hối. Nếu hay sám hối thì tội liền tiêu diệt. Nếu chẳng chịu phát lồ, che dấu trong tâm thì lâu ngày gốc tội kết sâu, sám hối không dễ.
Giai đoạn này, cần phải lướt thắng sự ngại ngùng trong việc bày tỏ lỗi lầm, nói ra sự thật và tất cả sự thật. Giai đoạn này rất cần thiết, vì nó biểu lộ sự chân thực của lòng thống hối, tránh cho chúng ta ảo tưởng và sự chủ quan.
Tuy nhiên, nếu tự biết có tội, đã thành tâm đối trước Tam Bảo sám hối rồi, đáng ra không được tái phạm lỗi ấy nữa, song vì hoàn cảnh bất khả kháng, hoặc vì tâm yếu mềm chống chọi không lại, rồi dẫm lại vết xưa, nhưng chúng ta cũng thành tâm sám hối đừng nản. Còn biết sám hối, chúng ta còn thấy đó là tội lỗi, nếu buông xuôi luôn, tội lỗi càng ngập đầu. Vì thế, có khi một lỗi phạm đến đôi ba lần, lần nào chúng ta cũng vẫn mạnh dạn sám hối, đừng vì tự ái không dám sám hối những lỗi đã tái phạm, tự ái này là gốc khiến ta buông lung tột độ.
e. Thực sự sửa đổi đời sống
Sống khác đi, không sống như cũ nữa, không làm điều xấu nữa; dứt khoát với tình trạng tội lỗi mà mình đang mắc phải. Bên cạnh đó, để trở thành một con người lương thiện, sống đời hạnh phúc an vui, chúng ta cần phải thành tâm sám hối về những hành động lầm lỡ của mình bằng những việc làm cụ thể ngay trong đời sống thường nhật. Vận dụng hết khả năng của tự thân để làm lợi ích cho cuộc đời bằng cách bố thí tài vật cho kẻ cơ nhỡ thiếu thốn, cúng dường Tam Bảo, hiến tặng niềm vui cho người, v.v… và vấn đề quan trọng hơn hết chính là sống chánh niệm tỉnh giác trong mỗi giây phút. Khi ta thực hành phước huệ song tu một cách trọn vẹn như thế thì nghiệp chướng tiêu trừ, thiện căn tăng trưởng, vượt thoát mọi ràng buộc khổ đau và đạt được niềm an vui giải thoát ngay trong đời sống hiện tại.
Giai đoạn này rất khó và đòi hỏi sự hy sinh, sự chiến đấu với chính mình, và sự chiến thắng, làm chủ được chính mình. Pháp cú 103, đức Phật dạy:
“Dầu tại bãi chiến trường
Thắng ngàn ngàn quân địch
Không bằng tự thắng mình
Là chiến thắng tối thượng.”
- Trì giới
Gìn giữ giới hay trì giới thông thường được hiểu là ngăn ngừa điều xấu, dứt dừng điều ác (phòng phi chỉ ác) hoặc ngưng điều ác mà làm điều thiện (chỉ ác tác thiện)” [ HT. Thánh Nghiêm, Cương Yếu Giới Luật, Thích Nữ Tuệ Đăng dịch, tr. 6, Nxb Phương Đông, 2007]. “Giới tiếng Phạn là Sila, Trung hoa dịch âm Thi la, còn gọi la Ba la đề mộc xoa biệt biệt giải thoát”. [ HT. Thích Thanh Từ, Bước Đầu Học Phật, Phẩm Giới, Hội Thiền Học Việt Nam, PL. 2548- DL. 2004]. Giới luật của đạo Phật nhằm giúp cho con người xây dựng đạo đức bản thân không tạo nhân xấu, để bớt khổ được vui, lợi mình lợi người. Giới có 6 năng lực:
· Chế ngự: Ngăn ngừa 3 nghiệp (thân, khẩu, ý) không cho buông lung.
· Thanh lương: Vì ba nghiệp thanh tịnh cho nên không bị thiêu đốt bởi các dục sanh ra, làm cho tâm được mát mẻ nhẹ nhàng.
· Nghiệp: Ngăn ngừa những lỗi lầm ý xấu tác động để ác nghiệp đoạn trừ, làm cho thiện nghiệp phát triển. Ðức Phật dạy: “Như lai nói tác ý tức là nghiệp”. [HT Thích Minh Châu, Tóm Tắt Kinh Trung Bộ, NXB Văn Hóa Sài Gòn,2010]
· Luật nghi: Những quy định có tính xây dựng đạo đức con người và hoàn thiện nhân cách.
· Diệu hạnh: Những hành động xứng đáng được mọi người khen ngợi.
· Phòng hộ: Giữ gìn và bảo vệ còn gọi là: “Phòng phi chỉ ác” (ngăn ngừa những điều xấu, chấm dứt những việc ác). Qua đó chúng ta thấy rằng năm giới của Phật dạy nhằm mục đích cho mình, vì hạnh phúc gia đình, đem lại hạnh phúc cho xã hội và tất cả chúng sanh, tạo cho xã hội một cuộc sống thanh bình an lạc.
Đạo đức của người con Phật được xây dựng và phát triển trên nền tảng của giới luật. Đối với một Phật tử tại gia nhất thiết phải nghiêm trì ngũ giới. Ngũ giới là cơ bản đạo đức của người Phật tử, khi bắt đầu bước chân trên con đường giác ngộ giải thoát. Thiếu căn bản đạo đức này, dù chúng ta có nói đạo đức cao siêu đến đâu cũng là lối nói rỗng. Sự tu hành thiết thực phải gầy dựng cơ bản trước, sau mới tiến lên những bậc cao siêu. Ðó là tầm quan trọng của ngũ giới.
Thật vậy năm giới Phật giáo là chuẩn mức đạo đức cho loài người nói chung, giá trị phổ biến của chúng, giá trị toàn cầu của chúng được các nhà đạo đức học, triết học, xã hội học trên thế giới công nhận. Ngoài ra giới còn giúp cho người đạt được mục tiêu cứu cánh rốt ráo an lạc. “Trong ba mươi bảy phẩm trợ đạo, Thế Tôn dạy rằng: Giới là nền tảng của Bốn Niệm xứ, Bốn Chánh cần, Bốn Như ý túc, Năm Căn, Năm Lực, Bảy Bồ đề phần và Tám Thánh đạo phần. Ví như đất là nền tảng, không có nó thì các loài động vật không thể di chuyển, cũng thế không có giới thì ba mươi bảy phẩm trợ đạo không thể được tu tập viên mãn”. Kinh Pháp Cú - Phẩm Phật Đà – kệ 183, đức Phật cũng có dạy:
Không làm mọi điều ác,
Thành tựu các hạnh lành,
Tâm Ý giữ trong sạch,
Chính lời chư Phật dạy.
Ðạo Phật ra đời là vì con người hay nói cách khác đối tượng của Ðạo Phật là con người vì thế cho nên mục đích của đạo Phật:
- Ðem lại sự hiểu biết về giá trị của con người làm cho con người nhận ra được lẽ thực,không ỷ lại vào tha lực và nhận trách nhiệm về những gì mình làm “Ta là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự của nghiệp, nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa. Phàm nghiệp nào sẽ làm, thiện hay ác, ta sẽ thừa tự nghiệp ấy” [HT. Thích Minh Châu, Kinh Tăng Chi II, Nxb Tôn Giáo 1988]
- Hướng dẫn con người cải tạo đời sống bằng những phương pháp, ngăn ngừa dục vọng và làm cho thân tâm thanh tịnh ngõ hầu đem lại một kết quả sống an lạc và hạnh phúc. Chỉ cho con người thấy giá trị của sự tự do chân thật cho mình và mọi người chung quanh với tâm an lạc, bình đẳng, có đời sống đạo đức trong cộng đồng xã hội.
- Trì
- Tính hạn chế của Phật giáo trong khả năng tham gia vào phát triển bền vững
- Chưa hiểu đúng về Phật giáo nên dễ đưa đến mất niềm tin
Có nhiều người thiếu hiểu biết cho rằng tôn giáo chỉ là mầu sắc mang tính chất dị đoan mê tín; thậm chí vô tình tạo môi trường làm nảy sinh nhiều biến tướng tiêu cực… nên dần họ đánh mất niềm tin với đạo Phật. Chẳng hạn, một bộ phận hoạt động hàng năm tại các tự viện chùa có các lễ hội dâng sao giải hạn cho những người gặp năm có sao hạn xấu như Kế Ðô, La Hầu, Thái Bạch; hay hình thức cúng mẫu, tục đốt vàng mã…
Thực tế, Giáo hội Phật giáo Việt nam đã lên tiếng, tục cúng sao giải hạn, hình thức cúng mẫu, tục đốt vàng mã không hề có trong giáo lý đạo Phật. Ðạo Phật cũng ngăn cấm sự cuồng tín, mê tín dẫn đến mê muội. Cuộc sống của con người, trước hết là vận hành theo nhân quả - sống như thế nào thì có kết cục tương ứng. Thứ hai là do môi trường sống, cách quan hệ, ứng xử trong cuộc sống. Để có cuộc sống tốt đẹp, hạnh phúc và bình an, thay vì dâng sao giải hạn… thì không gì tốt hơn bằng việc hãy ứng xử tốt với tất cả mọi người, quan tâm tới thiện tâm, ứng xử tốt với mình, xây dựng cho mình nhận thức, đạo đức đúng truyền thống thì tự nhiên tinh thần thanh thản. Phải xây dựng lối sống lành mạnh, lành mạnh trong cả nền tảng vật chất cũng như tinh thần thì cuộc sống sẽ tốt hơn. Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt nam chỉ đạo các cơ sở tôn giáo thực hiện nghiêm Nghị định số 110/2018/NÐ-CP ngày 29-8-2018 của Chính phủ quy định về quản lý và tổ chức lễ hội; Công văn số 31/CV-HÐTS về việc tăng cường nét đẹp văn hóa truyền thống dân tộc tại các cơ sở thờ tự Phật giáo; tăng cường công tác tuyên truyền về các giá trị, ý nghĩa đích thực của tín ngưỡng và nghi lễ truyền thống; hướng dẫn các cơ sở thờ tự Phật giáo không để việc tổ chức dâng sao giải hạn biến tướng thành dịch vụ mang tính trục lợi, ảnh hưởng đến nét đẹp văn hóa truyền thống của dân tộc". Cùng ngày, Hội đồng Trị sự GHPGVN đã chính thức lên tiếng qua Văn bản số 033/CV-HÐTS về việc tổ chức nghi lễ nguyện cầu bình an cho Phật tử và nhân dân tại các chùa nhân dịp đầu xuân năm mới gửi Ban Trị sự GHPGVN các tỉnh, thành phố.
Hội đồng Trị sự GHPGVN cũng thẳng thắn chỉ rõ: "Trong thời gian mấy năm trở lại đây đã tồn tại một thực tế là có sự sai lệch trong cách tổ chức nghi lễ cầu an ở một số chùa như các phương tiện thông tin đại chúng đã phản ánh. Nghi lễ dâng sao giải hạn không phải là nghi lễ của Phật giáo mà là tư tưởng triết học của Lão giáo đã hòa nhập với Phật giáo trong truyền thống Tam giáo đồng nguyên. Phật giáo tôn trọng và đã dùng pháp phương tiện để tập hợp mọi người mà giảng về giáo lý nhân quả, hoằng dương Chính pháp". Trên cơ sở đó, Ban Thường trực Hội đồng Trị sự GHPGVN yêu cầu Tăng ni, nhất là lãnh đạo Giáo hội cần gương mẫu trong việc tổ chức nghi thức cầu an đầu xuân tại các chùa bằng các pháp hội Dược Sư cầu quốc thái dân an. Việc tổ chức pháp hội phải bảo đảm trang nghiêm, tiết kiệm, tránh mê tín dị đoan, không để xuất hiện yếu tố dịch vụ, trục lợi, mà phải đúng Chính pháp để mọi người hiểu luật nhân quả của Phật giáo, làm việc tốt, sống đời sống chính mạng, chính nghiệp mới tránh bất an trong đời sống của mình. Ban Thường trực Hội đồng Trị sự đề nghị Ban Trị sự Phật giáo các tỉnh, thành phố hướng dẫn, chỉ đạo các chùa trong cả nước thực hiện đúng tinh thần của nội dung văn bản nêu trên.
Ðáng tiếc là những ý kiến đúng đắn như vậy chưa được lắng nghe, mà lại là điều ngăn trở, khiến cho mọi người không nghe được những lời chân lý của Phật như là những châm ngôn hay của các nhà hiền triết, chỉ nghe một câu có thể làm thay đổi cả một cuộc đời. Kinh Pháp Cú kệ 102, đức Phật dạy:
Dù nói trăm câu kệ
Nhưng không gì lợi ích
Tốt hơn một câu pháp
Nghe xong, được tịnh lạc.
Nếu vì hiểu lầm chỉ bởi một bộ phận nhỏ sai lầm, mà bỏ qua hoặc từ chối tiếp nhận tìm hiểu về con đường giải thoát, chứng ngộ dưới Bồ Đề của đức Phật thật là điều hối tiếc, như người bỏ đường sáng mà vào nơi tăm tối.
- Chủ quan trong nhận thức khi nhận xét Phật giáo
Con người dễ rơi vào chủ quan trong nhận thức khi nhận xét Phật giáo hoặc là giống như các tôn giáo khác hoặc sự tồn tại hay không tồn tại không có gì đáng đề cập
- Phật giáo giống như các tôn giáo khác
Ðức Thích Ca có dạy: “Tin là căn bản của sự thành công, và là nguồn gốc của muôn hạnh lành”. Mới nghe đến đây mọi người dễ nhầm lẫn Phật giáo giống như các tôn giáo khác. Nhưng có một điều mọi người chủ quan sai lầm là lòng tin của người theo Phật không phải là một lòng tin cuồng nhiệt, sôi nổi, không suy xét.
Đức tin Phật đưa con người đến chỗ thành công quyết không phải là một thứ mê tín, một tín ngưỡng mù quáng không xây dựng trên lý trí xét đoán là một nguy hại lớn cho đời sống của cá nhân, của gia đình, dân tộc và xã hội. Đức tin Phật dẫn dắt con người xa dần tín ngưỡng sai lầm có thể làm hại tinh thần quần chúng, không căn cứ trên lý trí xét đoán đã và sẽ đào luyện lên những trí óc lười biếng, ỷ lại, nô lệ cho hoàn cảnh, nô lệ cho dục vọng.
Một hôm, có người trong phái Kalmala đến tìm Phật và hỏi Ngài: “Bạch đức Thế Tôn, các thầy Bà-la-môn ngoại đạo đến thăm chúng tôi, người nào cũng bảo rằng chỉ có lời của họ mới đúng chân lý mà thôi. Bạch Ngài, chúng tôi thật lấy làm phân vân không biết theo bên nào, bỏ bên nào”.
Trả lời câu hỏi ấy, đức Phật không bảo rằng Ngài là chúa tể vạn vật, chỉ có đạo Ngài mới nên theo; ngài không bảo rằng các vị giáo chủ và các đạo khác đều là hư ngụy, là sai lầm. Lời dạy của Ngài rất rộng rãi. Ngài bảo: “Ngươi đừng vội tin theo ai cả. Tất cả những gì ngươi đã thực nghiệm sâu xa, hợp với lý trí xét đoán của ngươi, có thể đem lại hạnh phúc cho chính ngươi và những kẻ khác, những cái ấy, ngươi hãy nhận đó là chân lý và hãy cố sống đúng theo chân lý ấy”.
Ðọc đoạn vừa rồi trong kinh Kalama, chúng ta nhận thấy hai điều: một là đạo Phật không bao giờ bắt buộc người ta tin theo một cách mù quáng; hai là đức Phật không phải là một vị chúa tể có quyền phép lạ, có thể đem tín đồ mình đặt ở thiên đường hay ở địa ngục tùy theo ý thích của mình.
Nội một sự kiện “không buộc người phải tin theo một cách mù quáng” đủ chứng tỏ rằng đạo Phật có một tinh thần thật rộng rãi và có tính cách nhân loại. Ðạo Phật dạy rằng không hiểu Phật mà theo Phật thì đã không có lợi mà còn có hại là khác nữa.
Chính đức Phật Thích Ca cũng có dạy: “Tin ta mà không hiểu ta, ấy là bài báng ta vậy”.
Như thế, người nào tin Phật như một vị chúa tể có quyền ban phúc trừ họa tức đã bài báng Phật.
Một lòng tin chân chính phải đi theo với một lý trí xét đoán. Hiểu rồi mới tin, thì cái tin ấy mới là chánh tin. Ðối với đạo Phật, tin mà không hiểu thì sẽ lạc đường.
Ðạo Phật chủ trương cá nhân có quyền thẩm sát tất cả, và tin hay không là tùy ở mình. Chúng ta hãy đọc đoạn nầy cũng ở trong kinh Kamala:
"Ðừng vội tin tưởng những cái gì mà người ta thường lập đi lập lại luôn. Ðừng vội tin tưởng một điều gì dù điều đó là một tập tục cổ truyền đã trải qua nhiều thời đại. Ðừng vội tin tưởng một điều gì dù điều đó là điều người ta hay đồn và hay nói đến luôn. Ðừng vội tin tưởng một điều gì dù điều đó là do bút tích thánh nhân xưa để lại. Ðừng vội tin tưởng một điều gì dù điều đó là một luật lệ đặt ra từ lâu và được xem như là chánh đáng. Ðừng vội tin tưởng một điều gì dù điều đó là do quyền năng của một bậc thầy hoặc do quyền lực của một nhà truyền giáo. Tất cả những gì hợp với lý trí xét định, hãy tin ".
Phật giáo nước Việt trong 2000 năm đồng hành cùng dân tộc đã viết nên những trang sử vẻ vang cho nước nhà từ thời Lý, Trần; chằng khác gì với Asoka đại đế Ấn Độ ứng dụng pháp Phật vào công cuộc cai trị đất nước và đó là vương triều rực rỡ nhất không dùng bạo lực nhưng khiến lòng người quy phục. Không những thế Phật giáo khác hẳn các tôn giáo khác là mang sự thật vào đời. Chính sự thật này mang đấn cho nhân loại cuộc sống tốt đẹp hơn, như câu nói của Sankarasvamin “Tất cả mọi hành động thành công của con người đều bắt đầu từ nhận thức đúng đắn”.
Phật giáo cũng không giống câu nói cùa Karl Max: “Tôn giáo là liều thuốc phiện”
- Phật giáo có quan trọng trong cuộc sống?
Sai lầm lớn của con người là không nhận chân được giá trị của cuộc sống nên cứ mãi phập phù trong sanh, già, bệnh,chết; chịu biết bao nỗi đau gây nên bời tham sân si dấy khởi. Đức Phật dạy chì cần đoạn trừ tham sân si nguồn gốc khổ đau liền chấm dứt. Có bao nhiêu người thường ngày không biết đến Phật, không nghe, không hiểu, và không làm theo lời Phật dạy, khi lâm nạn mới đến chùa tháp, đốt một nén hương khẩn cầu. Họ xem đạo Phật là một lối chuyên môn thờ cúng, và Phật là một vị thần thiêng liêng sẵn sàng ban phúc diệt họa cho họ mỗi khi họ cần đến.
Thêm nữa, tam tạng giáo điển của Phật giáo không giống những Thánh kinh đối với tín đồ các tôn giáo khác. Mọi người không bị bắt buộc tin vào kinh điển một cách mù quáng. Kinh điển đối với Phật giáo không phải là một “tối hậu chân lý”, một bảo vật mà ai cũng phải thờ lạy. Kinh điển không phải là những bùa chú linh thiêng mà hể đọc lên là được đức Phật cứu độ. Kinh điển chỉ là lời dạy của Phật, của một bậc giác ngộ. Ðức Phật đã từng nói: Này các tỳ kheo! Hãy xem ta như kẻ hướng dẫn các ngươi trên đường tu học”.
Nếu những người lầm đường không đi theo con đường của người dẫn lối thì không khi nào đến đích được, và đó là lỗi của người không đi, chứ không phải là lỗi ở người chỉ đường. Vị lương y cho thuốc uống, nhưng sợ đắng không uống, bệnh không lành, đó chỉ là lỗi ở các con bệnh, chứ không phải lỗi ở lương y.
Nếu mọi người không hiểu lời dạy của Phật, không thực hành theo những lời dạy của Ngài, thì tam tạng giáo điển của Ngài đối với người kia không còn ý nghĩa gì nữa cả. Bởi thế, đốt hương, kết hoa, tỏ lòng biết ơn Phật cũng chưa phải là việc cần làm nhất của một người học Phật chân chính. Thực hành và sống theo lời Phật dạy mới là chân chính vậy.
Hiểu như thế, ta mới thấy rằng những tâm niệm đen tối, mê tín, ỷ lại vào quyền năng vu vơ của thần thánh không phải là một lòng tin mà đạo Phật đòi hỏi. Người học Phật phải thận trọng, luôn luôn giữ thái độ khách quan trong khi tìm hiểu kinh điển, và như thế là có tinh thần khoa học. Trí óc người học Phật phải là một cơ quan gạn lọc vàng sõi, phân biệt rõ ràng, đừng để bị nô lệ cho những kiến văn, sách vở, và những thành kiến dựa vào tình cảm.
- Kết luận
Vai trò kiến tạo giá tri đạo đức Phật giáo trong phát triển bền vững góp phần nâng cao lương tâm và nhận thức về đạo đức trong mối quan hệ cư xử hay hóa giải xung đột và kiến tạo hòa bình; hoặc thúc đẩy phát triển kinh tế và an sinh xã hội.
Đạo đức Phật giáo nổi bật với các giá trị phổ quát nhất về lòng từ bi, đem tình yêu thương đến với mọi người, tu tâm, hành thiện và xây dựng các mối quan hệ xã hội đã định hướng cho cho lý tưởng sống con người và trở thành kim chỉ nam hướng con người đến Chân - Thiện - Mỹ. Bản chất của đạo đức Phật giáo là hướng đến giáo dục đạo đức con người với những phẩm chất cao quý: Từ bi, hỷ xả, vô ngã, vị tha. Đạo đức Phật giáo trong nội dung tư tưởng của mình có nhiều giá trị cao quý về nhân văn và thực tiễn sâu sắc như: xem con người là trọng tâm, đề cao vai trò và vị trí con người; đề cao tinh thần phản tỉnh tự giác con người; đề cao việc rèn luyện trí tuệ và giải thoát con người; góp phần giáo dục, xây dựng và hoàn thiện con người về đạo đức; góp phần củng cố, bù đắp các thiếu hụt trong đời sống tinh thần và xây dựng một xã hội nhân ái, vị tha, hòa bình. Chính vì vậy, mà con người đã tìm thấy ở đạo đức Phật giáo một nơi để gửi gắm niềm tin, một niềm an ủi tinh thần che chở họ trước những cám dỗ và thử thách của cuộc đời. Phật giáo hướng con người đến một lối sống nhân bản biết yêu thương, đem niềm vui và quan tâm đến với mọi người mà quên mình, hướng con người biết cảm thông với những người có hoàn cảnh khó khăn, biết sống vì người khác.
Nhìn chung, đạo đức Phật giáo với những giá trị tinh túy của mình đã được người Việt Nam tiếp nhận và biến thành một phương thức để chuyển hóa tinh thần không chỉ trong lịch sử mà còn cả trong hiện tại. Vì vậy, khi du nhập Việt Nam, đạo Phật đã dễ dàng bén rễ vào nền văn hóa dân tộc, và đã trở thành tôn giáo lớn của đại bộ phận nhân dân Việt Nam. Những tư tưởng đạo đức cơ bản của Phật giáo đã nhanh chóng hòa quyện vào các giá trị đạo truyền thống của người Việt Nam như: lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, cần cù, sáng tạo, tiết kiệm trong lao động, tinh thần tự chủ, tự lực, tự cường, lòng nhân ái, khoan dung và tinh thần lạc quan trong nghịch cảnh, góp phần làm phong phú thêm cho các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc. Mặc dù còn những hạn chế nhất định mang tính lịch sử như: chưa có được cái nhìn toàn diện về bản chất xã hội của con người; mang màu sắc duy tâm, nhưng đạo đức Phật giáo trong nội dung tư tưởng của mình có nhiều giá trị cao quý về nhân văn và thực tiễn sâu sắc góp phần giáo dục, xây dựng và hoàn thiện con người về đạo đức; định hướng cho sự phát triển nhân cách, tư duy, giáo dục đạo đức, lối sống con người Việt Nam trong hiện tại và tương lai./.
- Giá trị nhân văn của ngày tri ân cha mẹ - 05/07/2024
- Sự kiện tháng tư - 15/05/2024
- Người mang trí tuệ đến nhân gian - 14/05/2024
- Kính mừng Phật đản - 30/04/2024
- Kinh Pháp Hoa Bổn Môn - 22/10/2022
- Kinh sám hối hồng danh - 22/10/2022
- Kinh Vu Lan - 22/10/2022
- Kinh Dược Sư - 22/10/2022
- Kinh Di Đà - 22/10/2022
- Ý nghĩa xuất gia - 17/10/2022
- Tam thân Phật - 17/10/2022
- Tam pháp ấn - 17/10/2022
- Tứ chánh cần - 17/10/2022
- Bát Chánh Đạo - 17/10/2022
- Lục độ - 15/10/2022
- Đi Chùa lễ Phật - 15/10/2022
- Thất Thánh Tài - 15/10/2022
- Tứ quả Thanh Văn - 15/10/2022
- Thập Thiện Nghiệp - 15/10/2022
- Tứ Vô Lượng Tâm - 15/10/2022
- Tứ Nhiếp Pháp - 15/10/2022
- Lục Hòa - 15/10/2022
- Nghiệp báo - 15/10/2022
- Ngũ Đình Tâm Quán - 15/10/2022
- Tứ Niệm Xứ - 15/10/2022
- Ăn chay theo quan điểm đạo Phật - 15/10/2022
- Ngũ căn – Ngũ lực - 15/10/2022
- Luân hồi - 15/10/2022
- Tụng kinh – niệm Phật - 15/10/2022
- Ngũ thừa Phật giáo - 15/10/2022
- Sám hối - 15/10/2022
- Đạo Phật - 15/10/2022
- Tam Vô Lậu Học - 15/10/2022
- Ngũ uẩn - 15/10/2022
- Tam pháp ấn - 15/10/2022
- Mười hai nhân duyên - 15/10/2022
- Tứ Diệu Đế - 15/10/2022
- Ý nghĩa thành đạo - 15/10/2022
- Quán Từ Bi - 15/10/2022
- Vô thường - 15/10/2022
- Nhân quả - 15/10/2022
- Quy y Tam Bảo - 15/10/2022
- Tứ vô lượng tâm - 15/10/2022
- Ý nghĩa Phật Đản - 15/10/2022
- Vu lan báo hiếu - 15/10/2022
- Cắt đứt tham dục - 06/05/2022
- Hồng danh sám hối - 03/01/2022
- Lợi hành nhiếp của Phật giáo: Hiếu ứng quan tâm hạnh phúc và lợi ích - 07/05/2021
- Hạnh nguyện của người xuất gia - 25/11/2020
- Đức Phật - Mùa Phật Đản - 30/04/2020
- Tứ Vô Lượng Tâm - 28/04/2020
- Chữ Hiếu Trong Đạo Phật - 26/04/2020
- Đi Chùa Lễ Phật - 26/04/2020
- Tướng tùy tâm sinh: Người có tâm từ bi sẽ được cải biến cả dung mạo lẫn số mệnh - 12/04/2020
- Hạnh phúc nhặt bên đường - 25/11/2019
- Phụ Nữ Trong Chánh Pháp - 25/11/2019
- Thánh hạnh vĩ đại của Đức Phật - 25/11/2019
- Kiểm soát sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý - 25/11/2019
- Đức Phật: Con người của mọi thời đại - 25/11/2019
- 620 câu hỏi trắc nghiệm giáo lý căn bản - 24/11/2019
- Nương theo hạnh nguyện Quán Âm - 22/07/2019
- Lời Phật dạy sâu sắc về việc hãy sống trọn vẹn hạnh phúc trong hiện tại - 18/07/2019
- Đức Phật dạy về sự bình đẳng dù sinh con trai hay con gái - 18/07/2019
- Tội nào nặng nhất, nghiệp báo đáng sợ nhất? - 18/07/2019
- Rượu gây ra 36 tội lỗi nên đức Phật cấm uống, cấm mời, cấm buôn bán rượu - 18/07/2019
- Lời Phật dạy sâu sắc về việc nhẫn nhịn trong cuộc sống - 18/07/2019
- Đức Phật dạy về cúng thí và ngạ quỷ - 18/07/2019
- Mê tín dị đoan, do đâu? - 17/07/2019
- 9 cách thay đổi số phận khi áp dụng các giáo lý nhà Phật - 15/07/2019
- Bốn hạng người luôn sống khổ - 15/07/2019
- Theo lời Phật dạy thì không có ai là đấng sáng thế - 06/07/2019
- Luận bàn về ranh giới giữa Mê và Ngộ - 06/07/2019
- Đạo Phật và nghệ thuật hóa giải sân hận - 06/07/2019
- Tôn giả Ma Ha Ca Diếp: Người dốc lòng giữ gìn phạm hạnh - 06/07/2019
- Tại sao đức Phật lại nói về thuyết luân hồi? - 06/07/2019
- Pháp tu căn bản của Phật tử - 06/07/2019
- Làm ơn hãy nghĩ đến sự tồn vong của chánh pháp và lợi ích chúng sanh - 06/07/2019
- Tu chứng - 06/07/2019
- Điều phục ý căn - 06/07/2019
- Hiểu và Ngộ - 06/07/2019
- Thiền và tâm lý trị liệu - 06/07/2019
- Tâm linh Phật giáo và xã hội đương đại - 06/07/2019
- Khái niệm giải thoát và giải thoát sinh tử trong đạo Phật - 06/07/2019
- Pythagore và thuyết luân hồi - 06/07/2019
- Đức Phật là thầy dẫn đường bậc mô phạm đạo đức - 06/07/2019
- Bàn về hai chữ cư sĩ trong kinh Tăng nhất A-hàm - 06/07/2019
- Cuộc sống hoàn toàn tốt đẹp bền vững theo Phật giáo - 06/07/2019
- Nguồn gốc và ý nghĩa của kinh Lương hoàng sám pháp và Thủy sám pháp - 06/07/2019
- Đức Phật dạy về cách xa lìa ái dục, xử lý năng lượng tình dục - 06/07/2019
- Các thiên tài nổi tiếng lý giải về Đức Phật - 06/07/2019
- Thế nào là mười nghiệp lành? - 06/07/2019
- Cuộc sống hoàn toàn tốt đẹp bền vững theo Phật giáo - 30/06/2019
- Bố thí, cúng dường cũng có năm bảy đường - 30/06/2019
- Hạnh phúc của người Phật tử - 16/06/2019
- Pháp lạc trong tu học - 16/06/2019
- Quán vô thường để chứng đạt vô ngã - 16/06/2019
- Suy nghiệm lời Phật: Khéo nghĩ - 16/06/2019
- Giết gì được Phật khen? - 16/06/2019
- Ý nghĩa bài kệ mở đầu kinh Pháp Hoa - 16/06/2019
- Bản chất cầu nguyện - 16/06/2019
- Quan điểm của Phật giáo về vấn đề tự tử - 16/06/2019
- Ý nghĩa phẩm Pháp sư thứ 10 kinh Pháp Hoa - 16/06/2019
- Suy nghiệm lời Phật: Chớ xem thường trẻ nhỏ - 16/06/2019
- Làm gì khi thất tình? - 16/06/2019
- Ý nghĩa Phẩm Bồ-tát Tùng Địa Dũng Xuất thứ 15 kinh Pháp hoa - 16/06/2019
- Suy nghiệm lời Phật: Biết cách tiêu tiền - 16/06/2019
- Pháp hành bố thí - 16/06/2019
- Hai pháp lành hộ trì thế gian - 16/06/2019
- Phép Hòa Quang Tam Muội Của Hai Thiền Sư Việt - 11/06/2019