Sám hối

Cập nhật: 15/10/2022

Ăn năn sám hối không chỉ là hối tiếc trước một việc làm sai trái đã qua. Ăn năn sám hối chủ yếu là thấy sai để sửa sai.

Sám hối

 

BÀI 1

A. DẪN NHẬP

Nếu con người và muôn loài chúng sanh cần có thức ăn để nuôi dưỡng sắc thân, thì họ cũng cần có những phương thức thực tập để trị liệu và nuôi dưỡng tinh thần, tâm linh. Những phương pháp thực tập ấy cũng ví như những món ăn tinh thần không thể thiếu cho mỗi chúng ta. Có một loại thức ăn các nhà hàng nhiều sao không quen thết đãi, nhưng những tín ngưỡng tôn giáo lại xem như đặc sản của mình. Loại thức ăn ấy người đời không quen thưởng thức, nhưng người Phật tử lại tìm đến như một thứ lương thực sớm tối. Thực phẩm ấy rất đơn giản nhưng lại là loại thực phẩm có đầy đủ mọi hương vị chua cay mặn chát ngọt bùi của quá khứ hiện tại tương lai. Món ăn chữa bệnh nhưng đồng thời cũng là món ăn bổ dưỡng tâm linh.

Đó không phải là món ăn mới nhưng luôn có diệu cảm mới dành cho những ai biết ăn đúng cách. Đó không phải là món ăn lạ, nhưng luôn là những phép lạ tâm linh dành cho những ai biết ăn đúng liều lượng. Đó không phải là món ăn đặc sản chỉ thết đãi trong thời gian cao điểm như những ngày rằm, mồng một, mà là món quanh năm suốt tháng mở cửa cho hết thảy mọi người bất kể giàu nghèo lớn bé. Đó không phải là món ăn cầu kỳ trong các nhà hàng quý tộc, mà thực ra là một nhịp cầu vô cùng kỳ diệu dẫn ta ra khỏi tình trạng tối tăm và dẫn ta bước tới đời sống thánh thiện. Đó chính là món ăn chữa trị và nuôi dưỡng tinh thần, Phật giáo gọi là pháp Sám hối, hay ăn năn sám hối.

B. NỘI DUNG

        I. ĐỊNH NGHĨA

Chữ “sám” tiếng Phạn gọi là Samma, Trung Hoa dịch là “yểm ly” (chán bỏ) hay “cải hối”. Còn chữ “hối” là Hán ngữ, ghép hai từ ngữ Phạn và Hán lại thành hai chữ Sám Hối.

Kinh Pháp Bảo Đàn nói: “Sám giả sám kỳ tiền khiên, hối giả hối kỳ hậu quá”. Sám là sám trừ, là hổ thẹn, ăn năn lỗi trước đã phạm, còn Hối là hối cải, sửa đổi, chừa bỏ lỗi sau. Nếu dùng một chữ Sám hay một chữ Hối không thì chưa đủ ý nghĩa, nên các Tổ xưa ghép hai chữ lại thành danh từ “Sám Hối”, dịch theo tiếng Việt là “ăn năn chừa lỗi”. Như thế, trong chữ Sám hối có hàm nghĩa hổ thẹn, ăn nănhối hận vì những lỗi lầm trong quá khứ, bất luận là lâu mau; và bây giờ cho đến về sau, nhất định quyết tâm sửa đổi con người mình, vĩnh viễn không còn tái phạm nữa. Không phạm tội cũ, không tạo lỗi mới, là chủ yếu của pháp Sám Hối.

Ăn năn sám hối không chỉ là hối tiếc trước một việc làm sai trái đã qua. Ăn năn sám hối chủ yếu là thấy sai để sửa sai. Sai và sửa sai là một chuyện bình thường có tính qui luật, bởi vì sai mà không sửa, sửa sai không kịp thời thì không những không có tiến bộ mà ngày càng lún sâu trong việc suy vong. Nếu biết lỗi cũ là sai, bây giờ mình ăn năn, mà sau nầy vẫn còn làm lại, thì không phải là đúng nghĩa Sám hối trong Ðạo Phật.

Còn có một điểm rất quan trọng của Sám Hối, sám hối vốn được sử dụng trong Phật giáo có nghĩa là thuyết tội hoặc thuyết ác, tức là nói lên những lỗi lầm hay việc làm phi pháp của mình, Luật tạng thường gọi là Phát lộ. Phát lồ là phơi bầy các lỗi của mình đã làm, bộc bạch các tội đã gây, không dám che đậy chút nào trước bậc đức hạnh để thành tâm sám hối. Làm thế, do tâm hổ thẹn, cầu tiến mới dám gan dạ đến trước bậc đức hạnh phơi bày hết tội lỗi của mình cầu xin sám hối.

Giá trị căn bản nhất là hổ thẹn và cầu tiến, hai tâm này là động cơ chính yếu trong việc sám hối. Vì hổ thẹn và cầu tiến chúng ta mới sám hối, sau khi sám hối dứt khoát không tái phạm gây tạo nữa. Ngài Ấn Thuận Luật Sư nói: “Quy chế sám hối của Phật pháp phải bày tỏ trước đại chúng hết mọi lỗi lầm, chịu sự xử phạt của Tăng đoàn. Trải qua một phen chân thành thống thiết sám hối, thanh tịnh mới phục hồi. Như trong bình có độc, phải đổ hết chất độc, súc bình cho sạch, mới có thể đựng vị quý được. Như vải dơ, trước tiên dùng tro hoặc xà bông tẩy cho sạch, sau đó mới có thể nhuộm. Cho nên, phải như pháp sám hối mới có thể trì luật thanh tịnh và khiến các động cơ không thuần dần dà hợp với Luật”. Vì vậy, phát tâm sám hối phải thẳng thừng bày tỏ hết mọi tội lỗi. Trọng tâm của sám hối là ở chỗ này.

      II. TẠI SAO PHẢI SÁM HỐI?

Người xưa nói: “Nhân vô thập toàn”, con người không ai mà toàn vẹn cả. Trong kinh Địa Tạng, Bồ-tát Địa Tạng bạch Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Con xem xét chúng sanh trong cõi Diêm Phù Đề, sanh tâm động niệm, không chi là phải tội” (Địa Tạng, phẩm thứ 7).

Khi tâm ý mê mờ, thiếu sáng suốt, ta vẫn còn mải mê chạy theo những đối tượng hấp dẫn bên ngoài thì chắc chắn tâm ta vẫn sẽ còn bị chi phối và điều khiển. Khi đó cơ hội sống trong tỉnh thức để luôn làm chủ mọi hành vi của mình cũng sẽ bị giới hạn, thì mọi hành động, nói năng của ta rất dễ dàng vấp phải những vụng về, lầm lỡ, sơ suất gây khổ đau cho bản thân và ảnh hưởng không tốt đến người khác. Dĩ nhiên, khi chưa phải là bậc Thánh thì không ai mà không có những lỗi lầm. Đó là lẽ đương nhiên. Chỉ khác nhau ở chỗ là có những người không có khả năng thấy được sai lầm, thậm chí còn cho rằng mình không thể phạm sai lầm hoặc đã thấy mình sai lầm nhưng không chịu thừa nhận, hoặc có thừa nhận nhưng không chịu sửa chữa, hoặc có sửa chữa thì cũng không quyết tâm sửa chữa đến cùng. Khắc phục và chịu trách nhiệm về những gì mình đã gây ra vốn là điều cần phải làm.

Từ xưa, các bậc minh triết đã cho rằng, việc thấy được sai lầm của bản thân mình, có thái độ ăn năn hối cải về những lỗi lầm ấy, có dũng khí để công khai thừa nhận và có quyết tâm chuyển hóa, sửa chữa những sai lầm để không lặp lại mới là việc làm quan trọng của người phạm lỗi. Thái độ và việc làm ấy chính là sám hối. Đây là dấu hiệu để chỉ một con người chân chính, trung thực, đáng cho mọi người tin cậy và kính trọng. Với ý nghĩa này, Sám hối không phải là một việc làm bắt buộc, mà đó là một nghệ thuật để ta nhìn lại tâm mình, biết sợ nhân chứ không phải sợ quả, bởi thường thường thì “Bồ-tát sợ nhân, chúng sanh sợ quả”, để rồi cải tạo nhân của mình. Và như thế, những phương pháp sám hối hay nói khác hơn, đó chính là những nguyên tắc thay đổi cuộc đời mình.

III. CÁC QUAN NIỆM VỀ SÁM HỐI

         1. Quan niệm sám hối thế gian

Sám hối tương tợ nghĩa xin lỗi của người thế gian. Người thế gian lỡ phạm lầm lỗi với ai khiến họ phiền muộn, biết mình có lỗi gan dạ đến xin lỗi, lỗi lầm ấy liền được tha thứ, nếu người rộng lượng, hoặc giảm bớt buồn phiền, nếu người cố chấp. Biết nhận lỗi mình và gan dạ đi xin lỗi, quả là người tiến bộ đáng khen.

Có nhiều hình thức sám hối mà ta thường thấy và biết: Như có nơi quan niệm dùng máu thú vật để xin rửa tội với thần linh; Có nơi chủ trương xuống tắm ở những sông, suối mà người ta cho là linh thiêng thì hết tội; Có nơi lại đem phẩm vật để xin Thánh Thần xả tội; Có nơi lại chủ trương khổ hạnh, ép xác như đánh đập thân mình, nhịn đói khát, chịu nóng rét, nằm gai nếm mật để được giải thoát tội lỗi.

Những hình thức sám hối trên chưa thuyết phục cũng chưa hoàn hảo. Tội lỗi thuộc về tâm lý, không có hình tướng. Vậy thì làm sao có thể lấy vật chất như nước, máu huyết, phẩm vật hay xác thân để làm sạch tội được. Những việc đó chỉ áp dụng để đối phó với bên ngoài, chứ bên trong trường hợp những tội lỗi xảy ra trong nội tâm của chúng ta, những tội lỗi rất vi tế, rất sâu xa, thì khó có thể mà áp dụng được hình thức ấy.

2. Quan niệm về sám hối theo Phật giáo

Trên đường tu tập, khi gặp nhiều chướng duyên, hoặc trong khi phát nguyện tu hành gặp toàn những trở ngại, hoặc thân thể bệnh hoạn ngăn trở sự tu, gặp hoàn cảnh này, ta ý thức tất cả là do ta đã gây tạo, từ đó ăn năn sám hối. Lời văn sám hối những nghiệp chướng cũ thu gọn trong bốn câu này:

                      “Xưa con đã tạo bao ác nghiệp

                       Đều bởi muôn thuở tham sân si

                       Từ thân miệng ý mà phát sanh

                       Tất cả, nay con xin sám hối.”

Lỗi ở đây là những việc làm, lời nói suy nghĩ có hại, gây đau khổ cho người, cho mình trong hiện tại cũng như tương lai. Cần lưu ý rằng quan niệm về tội trong Phật giáo. Chữ “tội” tiếng Phạn là “āpatti”, có nghĩa là: “cái bị rơi”, do động từ “pat”: rơiđi xuống mà thành. Vì thế, nhà Phật quan niệm tội nhân là người không theo kịp mọi người, bị rơi từ chỗ cao xuống chỗ thấp do phạm phải các điều xấu ác. Cũng như trong một lớp học, phần lớn học sinh theo kịp bài thì cuối năm được lên lớp, còn bên cạnh đó là một số ít không theo kịp nên phải lưu ban hoặc bỏ học. Đối với những người “bị rơi” như thế - tức là những người yếu đuối, sự giúp đỡ từ những người “không bị rơi” là điều rất cần thiết, cho nên họ xưng thú (phát lộ) lỗi lầm của mình trước vị tăng (những người không bị rơi) để cầu xin năng lực nâng đỡ. Nhờ những lời chỉ bảo và đức hạnh của Chư Tăng, ý chí làm lành lánh dữ (thiện pháp) ở trong con người lầm lỗi sẽ được nâng đỡ và tăng cường. Hơn nữa, xét về tâm lý, người phạm tội luôn mang cảm giác hối hận, bứt rứt, khiến cho tâm hồn bất an. Những cảm giác ấy nếu để lâu không giải toả sẽ chuyển thành trạng thái mặc cảm dưới dạng vô thức và tiếp tục ảnh hưởng đến tâm thái của người phạm tội. Việc sám hối (thuyết tội, thuyết ác) như thế trong chừng mực nào đó sẽ giải toả cái tâm lý đang bị dồn nén ấy. Đây chính là ý nghĩa mang tính chữa trị tâm lý của việc sám hối.

Ngoài ý nghĩa chữa trị thuộc lĩnh vực tâm lý này, sám hối còn có ý nghĩa tu tập thuộc lĩnh vực tâm linh và là một trong những pháp tu tập khá phổ biến đối với Phật giáo Đại Thừa, đồng thời cũng là một phương pháp nhằm ngăn ngừa việc tái phạm của 3 nghiệp trong Phật giáo Nguyên thuỷ. Nếu Phật giáo Phát triển chọn 2 ngày 14 hay ngày rằm, ngày 29 hay 30 làm ngày lễ sám hối chung cho hai giới xuất gia và tại gia, thì Phật giáo Nguyên thuỷ dùng phương pháp quan sát 3 nghiệp của chính mình làm phương pháp tu tập, có nghĩa là kiểm tra 3 nghiệp đã qua của mình, nghiệp nào trong 3 nghiệp ấy phạm phải sai lầm, người đó cần tìm thầy hay tương đương vị thầy để bộc bạch trình bày lỗi lầm của mình và phát nguyện từ đây về sau không tái phạm lầm lỗi đó nữa. Riêng đối với Thiền Trúc Lâm, mỗi ngày hành giả đều sám hối sáu căn, vì đây là đầu mối tạo tội, nghi thức này dựa theo Lục Thời Sám Hối Khoa Nghi của Trần Thái Tông.

Tóm lại, trong Phật giáo, Sám hối có mục đích chữa trị về tâm lý, tu tập về tâm linh và tuyệt nhiên không mang bóng dáng thần quyền như chúng ta có thể lầm tưởng.

           IV. SÁM HỐI CÓ HẾT TỘI HAY KHÔNG?

Do những tội lỗi và nghiệp chướng mà có ra tất cả những nỗi bất hạnh của ta trong đời này và đời sau. Nhờ sám hối mà ta có thể thanh lọc vô lượng ác nghiệp. Ngay cả năm tội ghê gớm (ngũ vô gián nghiệp) mà ta có thể phải chịu hậu quả nếu không sám hối. Theo luận Vaibhàshika (phái Tỳ Bà Sa) thì ta không thể sám hối loại tội này, nhưng phái Prasangikas thì nói có thể.

Bằng những hình thức sám hối quyết liệt nhất, chúng ta có thể thanh lọc tội lỗi ngay tận gốc rễ nó, hình thức trung bình thì làm cho tội lỗi giảm nhẹ, và với hình thức tối thiểu thì chúng ta cũng có thể ngăn cho tội lỗi khỏi trầm trọng thêm lên.

Kinh Trung Bộ II có đề cập đến sự kiện Đức Thế Tôn hóa độ cho tên sát nhân khét tiếng Angulimala (Vô Não). Angulimala là tên giết người không gớm tay, sau khi hạ sát người nào hắn chặt ngón tay để xâu thành một tràng chuỗi và đeo vào cổ. Angulimala sống đơn độc trong rừng núi, mỗi khi xuất hiện thì dân chúng đều kinh hãi. Hành động của Angulimala quả thật độc ác, giết hại rất nhiều người, không một ai có thể chấp nhận và tha thứ. Nhưng có lẽ Angulimala vẫn còn chút phước đức từ nhiều kiếp lâu xa trong quá khứ nên đã may mắn gặp được Thế Tôn và được Ngài khai thị về ý nghĩa đạo lý làm người. Nhờ vậy, Angulimala có cơ hội sám hối tội lỗi đã gây tạo và phát nguyện xuất gia tu hành, sau một thời gian Angulimala chứng được quả vị A-la-hán.

Đức Thế Tôn dạy rằng, có hai hạng người đáng được tán thán khen ngợi là kẻ có trí. “Này các Tỳ-kheo, có hai loại người có trí. Thế nào là hai? Người có phạm tội là thấy có phạm tội, và người chấp nhận người khác như pháp phát lộ tội của mình. Này các Tỳ-kheo, có hai loại người có trí này” (Kinh Tăng Chi Bộ, chương 2, phẩm Người Ngu).

Thực chất, trừ các bậc Thánh đã toàn thiện, còn chúng ta, sống trong đời này không ai tránh khỏi lầm lỗi, vụng dại. Do đó, điều quan trọng là mỗi người phải tự nhận biết những hành động sai trái của mình đã gây tạo mà sám hối, chừa bỏ. Nguyện giữ tâm hồn cho trong sáng, dù chỉ một vết lỗi nhỏ nhặt cũng đừng để vi phạm thì đó chính là hành động của người có trí tuệ.

Nếu chúng ta có lòng tin nhân quả, ta sẽ tránh phạm dù chỉ một tội nhỏ. Người ta không muốn hối lỗi, cầu tiến mà phó thác cuộc đời của mình cho số phận định đoạt.

Cuộc sống là do mình tạo ra

Bước không qua đừng đổ lỗi cho số phận

Khi tạo ra cái nhân xấu ác thì họ không biết nghĩ đến hậu quả phải trả ở ngày mai. Dù biết rằng, việc làm ấy hết sức sai trái nhưng họ vẫn cứ mặc nhiên tạo tác ác nghiệp, đến khi hệ quả khổ đau được hình thành thì người ta lại kêu trời trách đất và đổ lỗi cho số phận, do trời đã định, v.v… quả thật là mâu thuẫn. Mặt khác, có những người sám hối theo kiểu van xin cầu nguyện, họ tìm đến những nơi gọi là “linh thiêng” để cầu khẩn van xin, hoàn toàn nhờ vào tha lực với mục đích mong muốn được chạy tội. Những hành động mê mờ như thế chỉ tạo thêm cái lỗi lừa dối chính mình, khiến cho lòng tham muốn ngày càng bành trướng thêm hơn.

Thực ra, sám hối không phải là việc làm mang tính chất cầu khẩn van xin, mà ngay trong hiện tại, ta phải biết khắc phục những lỗi lầm, thực sự thành tâm ăn năn sửa đổi lỗi lầm, biết hổ thẹn với chính mình khi lỡ gây tổn hại cho kẻ khác. Cụ thể hơn, theo chiều hướng tích cực là ta biết gần gũi và học hỏi với các bậc thiện tri thức, những người có phẩm chất đạo đức cao đẹp, siêng năng học hỏi đạo lý, để thấu hiểu lời Phật dạy và thực hành trong mọi lúc mọi nơi. Khi đi đứng, lúc nằm ngồi, quét dọn nhà cửa, kinh hành niệm Phật, v.v… chúng ta cần phải thường trực chánh niệm tỉnh giác để nhận biết các ý niệm sinh diệt, đến và đi. Khi tâm hồn tĩnh lặng sáng suốt, ta sẽ phát hiện ra được đâu là ác pháp sinh khởi và đâu là thiện pháp, để từ đó mỗi lời nói và hành động của ta đều phát huy đúng mức với lẽ thật, thì chắc chắn đời sống của ta sẽ được chuyển đổi theo hướng đi sáng đẹp, đem lại lợi ích thiết thực cho tự thân và cho cuộc đời này.

Nếu Sám Hối như vậy thì tội lỗi sẽ tiêu trừ và phước được phát sinh. Vì sao? Vì khi sám hối thân chúng ta không phạm sát, đạo, dâm, vọng; không phạm vọng ngôn, ỷ ngữ, lưỡng thiệt, của khẩu; ý không phạm, tham, sân, si. Cho nên, nhờ pháp Sám hối của Đạo Phật con người có thể cải hóa lòng mình tốt đẹp hơn, góp phần tạo sự hòa bình, an lạc cho xã hội và hạnh phúc cho nhân loại.

Vậy, ai là người muốn hết tội lỗi, ai là người muốn giải thoát sinh tử luân hồi? Ai là người yêu chuộng chân lý? Vậy hãy cùng nhau nghiên cứu và thực hành các pháp Sám hối của Đức Phật cho kỹ lưỡng để cải thiện đời sống của chính bản thân mình và đem đến an vui hạnh phúc cho nhân loại.

         V. PHƯƠNG THỨC CHUẨN BỊ TRƯỚC KHI HÀNH PHÁP SÁM HỐI

Có một ngạn ngữ Latinh nói rằng: "con người là sai lầm". Nhưng, nét đẹp của một con người là biết ăn năn hồi tâm, biết sám hối nhận ra lỗi lầm của mình để từ đó sửa đổi canh tân bản thân. Sự trở về này gồm nhiều giai đoạn, phần lớn xảy ra trong nội tâm. Ăn năn sám hối bắt đầu từ nội tâm, từ cõi lòng. Trước khi thực hiện sự ăn năn sám hối, chúng ta cần chuẩn bị những bước sau đây:

                  1. Ý thức tội lỗi.

Đối với lỗi lầm mà ta gây ra cho người khác, trước khi muốn thể hiện sự ăn năn hối cải, ta hãy nên tự hỏi mình đã thật sự nhìn ra lầm lỗi chưa và tại sao mình lại hành xử tệ lậu như vậy? Trong thâm sâu của cõi lòng, trong nội tâm, chúng ta thấy mình có lỗi, nhận ra tội lỗi của mình. Chúng ta phán xét chính mình, nhận điều xấu mình đã làm, hay cái tâm địa xấu xa của mình. Và ý thức rõ rằng, chính những điều sai quấy mà mình tạo ra đó là mình vừa gieo một nhân xấu, nhân đó trở lại làm tổn hại thân tâm mình. Bởi vì, nhân quả không sai chạy, ta gieo nhân gì ta gặt quả đó. Đối với nhiều người, bước đầu tiên này đã là khó. Nhiều người trong thời đại hôm nay dù đã làm bao nhiêu điều xấu, vẫn không thấy mình có tội. Họ đã đánh mất ý thức tội lỗi, và đó là nguy cơ lớn nhất của nhân loại ngày nay.

Từ sự ý thức lỗi lầm, nhân quả như vậy, bước tiếp theo là chúng ta sinh lòng sợ hãi, tự biết có nhân xấu ắt cảm quả xấu, có sợ hãi thì việc sám hối mới chí thành chí thiết.

             2. Khởi tâm tàm quý, hối hận, ray rứt về những điều xấu mình đã làm.

Sám hối đúng ý nghĩa của nó phải có đủ tâm hổ thẹn và cầu tiến. Vì hổ thẹn, chúng ta không thể chứa chấp tội lỗi mãi, cần thành tâm sám hối rồi mới an ổn. Với tinh thần cầu tiến, chúng ta phải sám hối khi không phải bị ai bắt buộc, chỉ do tâm hổ thẹn thúc đẩy, chí dứt khoát những lỗi lầm đã qua bằng cách sám hối, để vui vẻ tiến lên con đường đạo đức. Có thế, sự tu hành tinh tấn không bị chướng ngại. Bởi hổ thẹn và mong mỏi vươn lên, sau khi sám hối, chúng ta tuyệt đối không để tái phạm những lỗi cũ. Chí thành tha thiết sám hối. Lòng chí thành tha thiết sẽ giúp chúng ta sạch hết mọi tội lỗi.

Tàm là hổ thẹn với mình, quý là hổ thẹn với người, xấu vì sự sai lầm của mình, hổ thẹn với sự trong sạch của nhân cách mỗi người. Tâm có ray rứt, hối hận, ta mới sinh lòng xấu hổ, đau đớn mà sửa đổi hành vi của mình được. Sự đau buồn này là một liều thuốc đắng, chữa lành cho vết thương tội lỗi. Sự ăn năn phản tỉnh của một con người sau khi đã lỡ làm điều xấu, sẽ làm cho người đó trở nên tốt hơn, sâu sắc hơn.

               3. Tìm một phương pháp để sám hối, sửa đổi lỗi lầm.

Đây là bước đi rất quan trọng, phương pháp ấy phải đúng, hợp với mình và hợp với cảnh, với đối tượng mà mình đang hướng đến để sám hối.

                4. Quyết tâm thú nhận tội lỗi, hay còn gọi là phát lồ.

Ví như tội ác đã làm, hoặc tự biết hoặc chẳng biết, hoặc vô tâm hoặc cố ý…, đã tạo ra tội thì phải đối trước Tam Bảo, hoặc đối trước thiện tri thức, thành thật tỏ bày cầu xin sám hối. Tinh thần sám hối buộc chúng ta phải thành khẩn thiết tha, hổ thẹn cầu tiến, vạch trần những lỗi lầm đã làm, cầu xin sám hối. Vì vậy, khi sám hối đương sự phải cần cầu tha thiết, lời lẽ trình bày chân thành rành rõ thiết yếu, phát nguyện chừa cải một cách mạnh dạn, mới đúng ý nghĩa sám hối. Nếu hay sám hối thì tội liền tiêu diệt. Nếu chẳng chịu phát lồ, che dấu trong tâm thì lâu ngày gốc tội kết sâu, sám hối không dễ.

Giai đoạn này, cần phải lướt thắng sự ngại ngùng trong việc bày tỏ lỗi lầm, nói ra sự thật và tất cả sự thật. Giai đoạn này rất cần thiết, vì nó biểu lộ sự chân thực của lòng thống hối, tránh cho chúng ta ảo tưởng và sự chủ quan.

Tuy nhiên, nếu tự biết có tội, đã thành tâm đối trước Tam Bảo sám hối rồi, đáng ra không được tái phạm lỗi ấy nữa, song vì hoàn cảnh bất khả kháng, hoặc vì tâm yếu mềm chống chọi không lại, rồi dẫm lại vết xưa, nhưng chúng ta cũng thành tâm sám hối đừng nản. Còn biết sám hối, chúng ta còn thấy đó là tội lỗi, nếu buông xuôi luôn, tội lỗi càng ngập đầu. Vì thế, có khi một lỗi phạm đến đôi ba lần, lần nào chúng ta cũng vẫn mạnh dạn sám hối, đừng vì tự ái không dám sám hối những lỗi đã tái phạm, tự ái này là gốc khiến ta buông lung tột độ.

                5. Thực sự sửa đổi đời sống.

Sống khác đi, không sống như cũ nữa, không làm điều xấu nữa; dứt khoát với tình trạng tội lỗi mà mình đang mắc phải. Bên cạnh đó, để trở thành một con người lương thiện, sống đời hạnh phúc an vui, chúng ta cần phải thành tâm sám hối về những hành động lầm lỡ của mình bằng những việc làm cụ thể ngay trong đời sống thường nhật. Vận dụng hết khả năng của tự thân để làm lợi ích cho cuộc đời bằng cách bố thí tài vật cho kẻ cơ nhỡ thiếu thốn, cúng dường Tam Bảo, hiến tặng niềm vui cho người, v.v… và vấn đề quan trọng hơn hết chính là sống chánh niệm tỉnh giác trong mỗi giây phút. Khi ta thực hành phước huệ song tu một cách trọn vẹn như thế thì nghiệp chướng tiêu trừ, thiện căn tăng trưởng, vượt thoát mọi ràng buộc khổ đau và đạt được niềm an vui giải thoát ngay trong đời sống hiện tại.

Giai đoạn này rất khó và đòi hỏi sự hy sinh, sự chiến đấu với chính mình, và sự chiến thắng, làm chủ được chính mình. Pháp cú 103, Đức Phật dạy:

“Dầu tại bãi chiến trường

Thắng ngàn ngàn quân địch

Không bằng tự thắng mình

Là chiến thắng tối thượng.”

                    6. Sau khi sám hối nên kiên định giới

Đối với người Phật tử, sau khi sám hối rồi nên hành trì giới mình đã thọ một cách miên mật. Nếu người chưa Quy Y Tam Bảo, chưa thọ trì giới, thì nên xin quy y và thọ trì giới luật của Phật. Bởi vì, Giới có công năng ngăn ngừa điều ác, tăng trưởng điều thiện.

Trong chánh văn của Lương Hoàng Bảo Sám, có bài kệ tán thán công đức sám hối, như vầy:

“Sám vừa cử tội liền tiêu

Giải oan trái, trừ nghiệp chướng.

Thoát khổ nạn, phước đức tăng

Sanh Ðạo lợi, hoặc về Tây”.

Ngài Phổ Hiển Bồ tát là Trưởng tử của Phật trên hội Hoa Nghiêm còn phải phát đại nguyện. Ngài nguyện sám hối mãi cho đến cùng tận đời vị lai. “Nếu phiền não và nghiệp chướng của chúng sanh không cùng tận thì sự sám hối của Ngài cũng không bao giờ cùng tận”.

Trong kinh Viên Giác, Phật dạy: “Các vị đại Bồ Tát lúc lập đạo tràng an cư từ 7 ngày cho đến 21 ngày đầu, sám hối nghiệp chướng”.

Trong kinh Bảo Tích, Phật dạy: “Hàng ngày nên đảnh lễ danh hiệu 35 vị Phật trong kinh ấy mà sám hối nghiệp chướng”.

Trong Luật thì pháp sám hối là một vấn đề tối quan trọng, không thể bỏ qua. Trong Luận thì pháp sám hối được giải thích rõ ràng và quyết định sám hối là một việc cần phải có của người chơn tu, không thể thiếu sót.

Trong Tam Vô Lậu Học Giới - Định - Tuệ, nếu chúng ta thực hành phương pháp sám hối là chúng ta đang hành trì áp dụng Tam Vô Lậu Học trong sự tu học của mình. Bởi vì, khi thân trang nghiệm tề chỉnh, lễ lạy Hồng Danh chư Phật là chúng ta đang hành trì Giới luật; khi khẩu tụng đọc, xưng tán những hồng danh chư Phật, tán thán những bài kệ sám hối, giúp tâm dừng nghĩ, chỉ chuyên chú vào danh hiệu Phật, đó là chúng ta đang thực hành Định; và thân tâm thanh tịnh trong sạch sáng suốt, phát nguyện không làm những điều sai quấy nữa, đó là Tuệ.

Hoặc trong Tứ Chánh Cần thì điều chuyên cần tinh tấn thứ hai là những điều ác đã sanh thì ngăn ngừa và đoạn tận, muốn được như vậy thì không gì hơn phải thực hành phương pháp sám hối. Căn bản để diệt trừ những điều ác đã sanh khởi, đã tạo tác thì phương pháp sám hối là thù thắng nhất.

        VI. PHƯƠNG PHÁP SÁM HỐI

Ðức Phật dạy rằng tội lỗi do tâm của người tạo ra, không ai có quyền thưởng phạt được. Kẻ gieo giống xấu thì ăn trái dở, người trồng giống quý thì hưởng qủa ngon. Tội lỗi đã từ tâm tạo, thì cũng phải từ tâm mà sám. Mặc dù sám hối là hành động quay về điều chỉnh lại tâm mình, nhưng nó cũng cần thực hiện như một nghi lễ. Hình thức trang nghiêm sẽ khiến cho ta dễ dàng chú tâm và thể hiện đúng mực thái độ muốn quay về sửa đổi. Vậy chúng ta muốn hết tội, phải y theo những pháp Sám hối chân chánh mà thực hành. Theo Phật học phổ thông, có 4 pháp Sám Hối sau đây:

              1. Tác pháp sám hối

Đây là pháp sám hối thuộc phần sự tướng, là phương pháp sám hối rất thông dụng. Nghĩa là ta tìm tới một đối tượng mà mình tin tưởng và kính trọng nhất để bày tỏ sự ăn năn. Họ có thể là chư Tăng, hoặc một vị thầy có đầy đủ giới đức, bậc thiện tri thức hay những người thân đang sống bên cạnh, hay cũng có thể là những bậc tiền nhân đã khuất – đây chính là những đối tượng chứng minh để chúng ta nương tựa tinh thần trong những lúc tâm lý mình rơi vào sự bế tắc do những lỗi lầm phạm phải, chính lúc này ta rất cần sự yểm trợ tinh thần từ họ. Người nào tự thấy mình có tội lỗi, thì phải lập đạo tràng, và cung thỉnh thanh tịnh Tăng chứng minh, hay mời những đối tượng mà mình tin tưởng, đối trước họ để tự phát lồ, bày tỏ những lỗi lầm mà mình đã phạm phải, nên gọi là tác pháp. Phải bày tỏ một cách chí thành và hết lòng thành khẩn ăn năn hối hận những lỗi lầm mình đã gây ra. Đồng thời, phải phát nguyện từ nay trở đi mình sẽ không bao giờ tái phạm nữa. Một lòng thành kính sám hối như vậy, khi giới thể được thanh tịnh tức là hết tội.

            2. Thủ tướng sám hối

Pháp nầy cũng thuộc về phần sự tướng, nhưng khó hơn pháp trước. Pháp sám hối này chỉ dành cho những người có trình độ cao, hoặc ở những chỗ không có chư Tăng Ni thanh tịnh chứng minh. Đây là pháp sám hối thuộc về quán tưởng và khi sám hối đương sự phải đến trước tượng Phật hay Bồ tát thành tâm lễ bái, trình bày những tội lỗi đã phạm và nguyện ăn năn chừa bỏ. Cứ thật hành như thế từ 1 ngày, 3 ngày, 7 ngày, 49 ngày, và mãi mãi cho đến khi nào thấy được hảo tướng như: thấy hào quang hay hoa sen báu, thấy Phật, Bồ tát đến xoa đầu v.v… thì mới thôi.

                  3. Hồng danh sám hối

Pháp sám hối nầy cũng thuộc về sự tướng do Ngài Bất Động Pháp Sư đời Tống bên Trung Hoa soạn ra. Ngài rút 53 danh hiệu Phật trong Kinh “Ngũ Thập Tam Phật” tức là từ Ðức Phật Phổ Quang cho đến Ðức Phật Nhứt Thế Pháp Tràng Mãn Vương, và rút 35 hiệu Phật trong Kinh “Quán Dược VươngDược Thượng”, với Pháp thân Ðức Phật A-Di-Ðà, sau thêm vào kệ Phổ Hiền Ðại Nguyện, thành nghi thức sám hối này, tổng cộng là 108 lạy, để ám chỉ trừ 108 phiền não.

Nghi thức sám hối này, nếu ai chí thành kính lễ, thì sẽ diệt trừ được những phiền não và tội lỗi đã tạo, trong đời hiện tại cũng như nhiều đời quá khứ.

Ðức Phật Tỳ-Bà-Thi nói Pháp sám hối này“Nếu chúng sanh nào nghe danh hiệu 53 vị Phật này, thì trăm ngàn ức kiếp không đọa vào ba đường ác”.

Ðức Phật Thích Ca nói Pháp sám hối này“Thuở xưa, đời Phật Diệu Quang, ta đi tu nhằm đời mạt pháp, nhờ được nghe danh hiệu 53 vị Phật này, và thành tâm lễ bái, mà tránh khỏi những đau khổ trong đường sanh tử luân hồi nhiều kiếp”.

Còn 35 danh hiệu Phật sau, từ Ðức Phật Thích Ca cho đến Ðức Phật Bửu-Liên-Hoa Thiện-Trụ-Ta-La-Thọ Vương, thì trong Kinh Bửu Tích nói Pháp sám hối này“Nếu tất cả chúng sanh, hoặc phạm tội ngũ nghịch hay thập ác, đến muôn kiếp không thể sám hối, chỉ xưng danh hiệu 35 vị Phật này và lễ bái, thì bao nhiêu tội chướng đều tiêu trừ”.

Hồng danh của Chư Phật có công đức không thể nghĩ bàn như vậy, nên Ngài Bất Ðộng Pháp sư mới soạn ra để làm nghi thức sám hối. Pháp hồng danh sám hối hiện nay, hầu hết các chùa đều thực hành theo.

Trong mười đại nguyện của Bồ tát Phổ Hiền, nguyện trước tiên là “lễ kính chư Phật”. Tuy hình thức lễ bái đơn giản, nhưng có hiệu quả rất cao là diệt trừ được động cơ tạo nghiệp và hai thứ phiền não gốc. Vì khi hành giả lễ bái, thì động cơ tạo nghiệp của thân bị đình chỉ. Đồng thời khi lễ lạy, thì hành giả dẹp trừ được tâm ngã mạn cống cao và hướng về Phật với lòng tin vững chắc không còn nghi ngờ.

Như vậy, là phá trừ được hai thứ phiền não gốc “mạn” và “nghi”. Nên nói “Lễ Phật một lễ, diệt tội hà sa”. Và khi thân lạy, miệng thì xướng danh hiệu Phật, thế là khẩu nghiệp được thanh tịnh. Khi khen Phật đó là chánh kiến, tất nhiên tà kiến không có. Và trong khi lễ lạy, thì tâm ý nương vào câu hiệu Phật, thế là tâm ý được thanh tịnh. Chỉ một hành động lạy Phật đơn giản như thế mà dứt trừ được ba nghiệp tạo tội của thân, miệng, ý. Vì thế, nên nói lạy Phật sám hối sẽ được tiêu trừ tội chướng.

Tuy nhiên, trong trường hợp của Phật tử vì trong tuổi yếu đuối, không thể đứng lên lạy xuống được, nên Phật tử chỉ cần chí thành niệm Phật thì cũng được tiêu trừ tội chướng. Vì, giáo pháp Phật dạy có vô lượng pháp môn, tùy theo căn cơ, tuổi tác, và sức khỏe của mỗi người mà có thể ứng dụng hành trì cho thích hợp. Nếu thật hành đúng pháp theo lời Phật Tổ dạy, thì tất cả cũng đều được lợi ích.

Khi chúng ta thực hành phương pháp hồng danh sám hối, không phải lạy Phật là để cầu xin chư Phật phù hộ cho mạnh khỏe, hay tha thứ cho mình hết tội, hết lỗi, mà cốt là quay lại tự tâm chính mình...ví dụ: Khi xưng Nam Mô Phổ Quang Phật là chúng ta quán chiếu lại tự tánh thanh tịnh, sáng suốt của mình, một ánh sáng trùm khắp cả hư không thế giới. Hay xưng danh hiệu Nam Mô Phổ Minh Phật là chúng ta quán lại tự tánh thanh tịnh của mình, một trí tuệ siêu việt, soi thấu thiên đường và hạ triệt địa ngục. Mà trong Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “hào quang của Như Lai soi từ địa ngục A-Tỳ thấu đến trời Hữu Đảnh”. Như vậy, khi thân ta lễ Phật, khẩu sám hối, ý quán tưởng Phật, tức tam nghiệp được thanh tịnh, mà tam nghiệp hằng thanh tịnh là đồng Phật vãng Tây Phương. Khi đồng Phật vãng Tây phương là chúng ta đã trở về với tự tánh thanh tịnh của mình. “Vì thế đức Phật trí nguyện rộng lớn, mở cửa phương tiện, tùy lối chỉ đường về, đúng bệnh cho thuốc. Biết huyễn cấu của chúng sanh từ vọng mà sanh, khuyên họ một niệm kính thành qui y sám hối, khiến thân tâm thanh tịnh, trong sạch như xưa”. (Khoa nghi sáu thời sám pháp, phần tựa)

Song, khi lễ lạy Phật thì chúng ta phải chú ý:

- Phát trí thanh tịnh lễ.

- Biến nhập pháp giới lễ.

- Chánh quán lễ.

- Thật tướng bình đẳng lễ.

             4. Vô sanh sám hối

Pháp này thuộc về lý Sám hối, rất cao và khó, bậc thượng căn mới có thể thực hành được, Nên biết lý sám hối có công năng rất lớn. Quán tính của tất cả tội ác đương thể không sanh, tâm lặng tội không, đó là chân sám hối. Có hai cách sám hối: quán tâm vô sanh và quán pháp vô sanh.

               a. Quán tâm vô sanh: Nghĩa là quán sát từ tâm mình hiện tiền không sanh như trong Kinh Kim Cương nói: “Tâm quá khứ không thể được, tâm hiện tại chẳng có, tâm vị lai cũng không.” (nghĩa là quá khứ thì sự đã qua, hiện tại sự suy nghĩ sinh diệt từng sát na, tương lai sự suy nghĩ chưa đến). Trong ba thời gian như vậy, thì chúng ta thấy đều không có tâm, mà tội lỗi đều do tâm phát sanh, nếu tâm không thật thì tội lỗi kia từ đâu mà có. Quán trong ba thời gian đều không có tâm, thì vọng niệm không từ đâu mà có, nếu vọng niệm không có, thì các tội lỗi cũng không.

Trong Pháp Bảo Đàn kinh, ngài Huệ Năng dạy rằng:

“Bồ đề bổn vô thọ

Minh cảnh diệc phi đài

Bản lai vô nhất vật

Hà xứ nhá trần ai”.

Qua bài kệ này, ý Tổ cho chúng ta biết rằng, cái tâm của chúng ta từ xưa đến nay luôn linh diệu, trong sáng, không dơ, không sạch, không tăng không giảm là một thể tánh chơn như, đã có trước khi cha mẹ sanh ra thì tội lỗi và bụi trần làm sao bám vào cho được.

Vì bản tâm của chúng ta thường hằng vắng lặng sáng suốt, bất sanh bất diệt. Tội có ra là do tâm tạo. Đó là tâm vọng tưởng. Do bất giác khởi vọng tạo nghiệp. Tâm nầy không thật có. Tâm đã không thật, thì tội làm sao có thật được? Vì tội do tâm sanh, mà tâm vốn không sanh, thì tội cũng không có. Đó là tánh tội vốn không. Hằng sống với thể tánh nầy, thì mọi tội lỗi sẽ không còn. Thí như bóng tối dù trải qua hằng triệu tỷ năm, nhưng khi có ánh sáng của ngọn đèn chiếu vào, thì bóng tối kia sẽ tan biến ngay. Vì thể của bóng tối vốn không thật. Cho nên Kinh dạy rằng:

Tội từ tâm khởi đem tâm sám

 Tâm được tịnh rồi tội liền tiêu

    Tội tiêu tâm tịnh thảy đều không

Thế mới thật là chân sám hối”.

           b. Quán pháp vô sanh: Nghĩa là quan sát thật tướng (chơn tánh) của các pháp không sanh. Chữ “thật tướng”, nghĩa là cái tướng ấy không sanh không diệt, không hư dối; từ xưa đến nay nó vẫn thường như thế, không bị thời gian thay đổi, hay không gian chuyển dời, suốt xưa thấu nay, nên gọi là thật tướng (Tướng chân thật). Nó cũng có tên là chơn như hay chơn tâm... Khi nhận được thật tướng rồi, thì các giả tướng đều không còn. Lúc bấy giờ những tội lỗi (giả tướng) kia, không còn gá nương vào đâu mà tồn tại.

Trong Kinh Quán Phổ Hiền chép: Muốn sám hối phải quán thật tướng của các pháp. Trong Kinh Pháp Hoa Đức Phật dạy ở Phẩm Phương Tiện thứ hai là “Chư pháp tùng bổn lai, thườngng tự tịch diệt tướng”. Nghĩa là thực tướng từ xưa đến nay luôn luôn tịch mặc vắng lặng, không giảm không đến, không sinh, không diệt, không cấu không tịnh. Nếu thực tướng của các pháp từ xưa đến nay luôn tịch mặc vắng lặng, như vậy tướng nào đã gây ra tội và chúng ta dùng tướng nào để sám hối cho diệt tội?

Trong Chứng Đạo Ca, ở thi ca thứ hai, Huyền Giác Thiền Sư nói về tướng của nhơn và pháp:

“Chứng thật tướng vô nhơn pháp

Sát na diệt khước A-tỳ nghiệp.”

 

(Chứng “thật tướng” thấy rõ cõi đời “vô tướng”

Vô tướng đồng với “vạn pháp giai không”

Tướng “Pháp”, “Nhơn” mà còn chẳng có gì!

A-tỳ nghiệp vì gì mà hiện hữu.)

Quán triệt thực tướng của các pháp là vô tướng, người ta sẽ không còn chấp Nhơn và Pháp. Nghiệp A-tỳ- hay quả của những tội lỗi nếu có, nó phát nguyên từ ý niệm chấp mắc. Chấp nhơn và chấp pháp - là hai đối tượng chấp, nó sanh ra vô vàn đau khổ. Do đó, diệt bỏ ý niệm chấp thì tâm hồn thanh thoát khinh an đến độ tự tại như như bất động, vì vậy cái gọi là nghiệp A-tỳ cũng tự hóa giải trong sát na vậy. Đến lúc này thì:

“Vô tội phước, vô tổn ích

Tịch diệt tánh trung mạc vấn mịch

Tỷ lai trần kính vị tằng ma

Kim nhật phân minh tu phẫu tích.”

 

(Tội là chi, phước lại là chi?

Đa mang chi hai gánh nặng như chì!

Ai bắt tội? Ai là người chịu tội?

Thiện là chi, ác cũng lại là chi?

Sợ làm chi hai danh tự vô nghì!

Sợ cái đáng sợ! Lương tâm tự hành hạ lấy

Gương lòng sáng, xưa nay ta vốn có

Mặc cho bụi mờ vĩnh viễn chẳng quan tâm

Ngày hôm nay có cơ hội lau chùi

Sáng soi thấy, “phước” và “tội” không ai ban ai phạt.)

Đó là bốn phương pháp sám hối trong Đạo Phật mà chư Phật, chư Tổ đã dạy cho chúng ta, mục đích là giúp chúng ta thực hành để sống lại với tự tâm thanh tịnh của mình trong giờ phút hiện tại, vì khi trở về với tự tâm thanh tịnh là chúng ta đâu có làm điều gì tội lỗi.

Vì lẫm lỗi do tâm ta gây ra thì phải từ nơi chính tâm ta thay đổi mà không có bất cứ năng lực tối cao nào từ bên ngoài có thể giúp ta thay đổi được. Nên ý thức rằng, lỗi lầm dù to tát đến đâu cũng chỉ là hiện tượng tâm lý nhất thời, đó không phải là toàn vẹn con người của ta. Ta đừng tự đồng hóa mình với những yếu kém ấy mà đánh mất niềm tin vào bản thân hay mặc cảm. Tuy nhiên, nếu ta không quyết lòng chuyển hóa những lỗi lầm ấy, vấn đề nó thao túng mọi suy tư và hạnh động thì ta sẽ chẳng bao giờ tìm thấy được con người thật của mình. Ta sẽ sống mãi với những vỏ bọc phiền não của mình. Đó là điều đáng tiếc nhất trong đời.

Qua đó ta thấy, Sám hối được nhìn từ hai mặt sự-lý mà phân thành sự sám và lý sám. Sự sám là nói tất cả nghi thức sám hối, tức là sám hối có biểu hiện hình thức bên ngoài. Lý sám cao hơn một bậc, là dùng trí quán chiếu thật tướng của các pháp mà diệt trừ được tội. Sự sám tương đương với tác pháp sám và thủ tướng sám, lý sám tương đương với vô sanh sám. Sự và lý hỗ tương cho nhau trong việc sám hối, nếu thực hành, chúng ta đạt được những lợi ích thiết thực trong việc hành pháp sám hối này.

    VII. TẦM QUAN TRỌNG CỦA SỰ SÁM HỐI

“Sám trừ tội lỗi đã qua

Hối cải tật xấu trong ta dứt mòn.

Nghiệp hoặc rửa sạch lòng son

Thân tâm an lạc, đạo tròn quả cao”.

Kinh Tâm Địa Quán, Đức Phật dạy: “Nếu như pháp mà sám hối thì tất cả phiền não thảy đều tiêu trừ, cũng như lửa kiếp làm hoại thế gian, thiêu đốt núi Tu di, biển cả; sám hối có thể thiêu đốt rừng phiền não; có thể vãng sanh về cõi Thánh; có thể được vui Tứ thiền; có thể sống lâu như Kim cang, thoát khỏi tam giới; có thể làm hoa Bồ đề nở hoa, đến chỗ bảo thành.”

Trong kinh, Đức Phật đã dạy: “Có hai hạng người được xem là mạnh mẽ, tối thắng: một hạng người không có tạo tội và hạng thứ hai là hạng người tạo tội rồi biết ăn năn sám hối. Lại có hai phương pháp trong sạch, có thể làm cho chúng sanh diệt trừ được các món chướng ngại, một là biết hổ thẹn nên tự mình không làm ác; hai là biết thẹn nên không xúi người làm ác. Có hổ có thẹn như thế mới gọi là người tối thắng, còn ngược lại nếu không biết hổ thẹn thì tuy là hình tướng là con người nhưng cũng không khác gì loài cầm thú.”

Nhờ pháp sám hối của Ðạo Phật, con người có thể cải hóa lòng mình tốt đẹp hơn. Nhờ pháp sám hối, con người có thể làm cho đời sống cá nhân được hạnh phúc, và đời sống xã hội được hòa bình, an lạc.

“Hôm qua mặt mũi dạ xoa

Ngày nay Bồ tát mặt hoa rạng ngời

Dạ xoa bồ tát ở đời

Mảy may không tách không rời phút giây.”

      VIII. ỨNG DỤNG PHÁP SÁM HỐI VÀO ĐỜI SỐNG TU TẬP

           1. Chọn phương pháp sám hối phù hợp

Trong bốn phương pháp sám hối trên, chúng ta phải tìm phương pháp sám hối phù hợp với mình. Nếu ta là người nghiệp chướng nặng thì phải thường hành pháp đối thú sám hối và Hồng Danh Sám Hối.

          2. Tinh tấn tu hành, làm nhiều việc lành

Ngoài ra chúng ta tinh tấn tu hành, làm nhiều việc thiện cũng là một phương pháp sám hối. Tất cả tội lỗi là do ba nghiệp thân khẩu ý làm ác mà ra. Nay chúng ta đem ba nghiệp này làm lành, làm thiện thì phước đức của ta càng ngày càng tăng. Đây là cách sám hối thiết thực vậy.

           3. Bao dung, tha thứ với lỗi lầm của người

Khi học về Sám hối thì đồng thời ta cũng biết cách tha thứ lỗi lầm của người. Thông cảm, chia sẻ với lỗi lầm của người, giúp người nhận ra lỗi của mình. Hãy nhìn mọi thứ thật nhẹ nhàng! Đó có thể là một “thần chú” để mình thực tập, trong mọi hướng nhìn về cuộc sống, con người cũng như nhìn về chính mình.

Có người lúc nào cũng nhìn thấy những điều tối thui ở người khác dẫu họ không phải lúc nào cũng xấu. Đôi mắt hoài nghi hay “quơ đũa cả nắm” đối với một người mà mình đã ác cảm hoặc đối với một nhóm người bị xem là xấu xí sẽ làm cho mình có cái nhìn nặng nề về họ, và tất nhiên, mình sẽ hành xử với một tâm thế phòng vệ, né tránh hoặc kỳ thị, rồi lên án, nói xấu, quy chụp...

Trên “giang hồ” có câu nói nổi tiếng rằng: “lấy đức báo oán chứ đừng lấy oán báo oán, vì như thế oán đối sẽ kéo dài”. Đối với kẻ oán mà người ta còn nghĩ tới lấy đức - tức là lấy nhân từ để đối đãi, huống hồ đối với những người lầm lỗi, mà lỗi lầm ấy không phải họ phạm với mình thì hà cớ chi mình lại dùng lòng oán thù để đối đãi, hậm hực muốn tẩy chay hoặc kỳ thị? Thậm chí, có những người họ không hẳn là xấu mà chỉ vì họ mang những khuyết tật nào đó về mặt hình thể, tâm lý... ngoài ý muốn mà mình cũng “né” họ như thể né một ác quỷ thì liệu như thế có làm mình tốt hơn, hay là ngược lại?

Do vậy, khi chưa hiểu về bản chất con người hoặc bản chất của sự việc, chưa chạm tay vào tình thương thực sự thì mình dễ ác một cách vi tế kiểu như áp đặt, quy chụp hoặc “tự động” suy ra những điều mà mình dùng lý luận chủ quan để đưa tới kết quả chứ không phải là tiếp xúc, thực chứng.

Nghĩ như thế để thấy chia sẻ và nhìn mọi thứ nhẹ nhàng, thực ra là mong muốn mình hãy nhìn thật sâu để thấy đằng sau những biểu hiện xấu xí có cả những nét đẹp, nét đáng thương, mà nếu mình chịu khó khơi dậy hay trao gửi niềm tin cho họ, xóc xới hạt lành trong mảnh đất tâm hiện tại đang cằn cõi kia thì biết đâu mình sẽ cứu được một người khỏi chết - cái chết của tâm hồn, của cái thiện lương vốn được gọi là “tính bổn thiện”, vốn ẩn tàng hạt giống mang tên Phật tánh mà lắm khi mình đã trực tiếp hay gián tiếp đẩy họ vào chỗ xấu, ác chỉ vì sự thiếu thấu đáo và ác cảm của mình bắt đầu từ tâm tới đôi mắt.

Nhìn mọi thứ thật nhẹ nhàng, mình sẽ thấy ai cũng đáng được thương, và rồi đến một lúc nào đó, ai cũng nhìn mình và thấy mình thật dễ thương, vì lòng mình không có thấy ai đáng ghét hết. Tâm ấy nên tướng ấy hiển bày, tướng dễ thương đó, y như Bụt dạy vậy, “tướng từ tâm sanh”!

Vậy chúng ta hãy ứng dụng, thực hành phương pháp sám hối để cho tội lỗi, nghiệp chướng của mình sớm được tiêu trừ, đời sống của mình được hạnh phúc, an lạc và sớm được giải thoát giác ngộ trên bước đường tu tập đạo giải thoát giác ngộ.

                 Có những giọt nước mắt

                 Chưa bao giờ thành lệ…

                 Giúp cho ta can đảm đứng lên đi!

                 Để tâm hồn rũ bỏ bớt sân si,

                 Biết đồng cảm,

                Biết thương ai từng vấp ngã…

Nếu như xin lỗi là hành động hướng tới đối tượng để hàn gắn vết thương trong tâm người khác thì sám hối là thái độ quay trở về chữa trị tì vết lỗi lầm trong tâm mình. Tất nhiên, tùy theo tình huống mà ta nên thể hiện hành động nào trước, nhưng quay về sám hối với chính mình rồi mới xin lỗi kẻ khác vẫn là giải pháp đúng đắn nhất. Sám hối phải mang hai đặc tính: ăn năn về lỗi lầm đã gây ra và quyết tâm không lặp lại lần nữa. Cả hai yếu tố này đều rất quan trọng và có liên hệ chặt chẽ với nhau. Nếu ta không thật sự ăn năn hối cải thì ta sẽ không bao giờ có quyết tâm thay đổi, và nếu ta không có quyết tâm thay đổi thì sự ăn năn hối cải kia cũng chỉ là cảm xúc nhất thời để xoa dịu vết thương trong ta mà thôi. Có một câu nói rằng, “chúng ta không thể thay đổi được người khác nhưng có thể thay đổi được chính mình”. Thay đổi chính mình để không lặp lại lỗi lầm khó hơn rất nhiều so với thể hiện sự ăn năn hối cải, bởi thay đổi chính mình tức là phải phá vỡ những cố tật phiền não.

C. KẾT LUẬN

Ngài Long Thọ khẳng định trong Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận rằng: “Ta không nói sám hối thì nghiệp tội diệt hết không còn quả báo; ta chỉ nói sám hối thì tội giảm nhẹ, thời gian lãnh thọ ngắn hơn”.

Nói tóm lại, Sám Hối là một phương pháp gội rửa tâm có vai trò rất quan trọng trong Đạo Phật, mục đích của nó là tiêu trừ nghiệp, giúp hành giả thăng tiến trên con đường giải thoát.

Sám hối là pháp thiết thực và quan trọng trong cuộc sống hằng ngày, nhất là trong đời sống tu tập, nhờ pháp sám hối mà con người biết cải ác làm lành, nhờ pháp sám hối con người cải hoá lòng mình tốt đẹp hơn, làm cho đời sống của mình được hạnh phúc, xã hội được hoà bình, an lạc.

Muốn thăng tiến nhanh, đạt được lợi ích lớn thì khi chúng ta sám hối một nghiệp nào đó thì ta cầu cho tất cả chúng sanh không bị nghiệp đó như con. Ví dụ, bị nghiệp nói cà lăm, là do khẩu nghiệp, nguyện cho mọi người không bị nói cà lăm như con, hoặc bị ung thư, bệnh… khi sám hối ta nguyện cho mọi người đều thoát ác nghiệp…

                Con đã gây ra bao lầm lỗi

                Khi nói, khi làm khi tư duy

                Đam mê, hờn giận và ngu si

                Nay con cúi đầu xin sám hối

                Một lòng con cầu Phật chứng tri

                Bắt đầu hôm nay nguyện làm mới

                Nguyện sống đêm ngày trong tỉnh thức

                Nguyện không lặp lại lỗi lầm xưa.

Nguyện sống trong tỉnh thức và không lặp lại lỗi lầm xưa mới đúng thật là chơn sám hối.

Hồi đầu thị ngạn, quay đầu là bờ, cách bờ xa hay gần là khác. Nói đúng hơn, là thấy bờ, sám hối lỗi lầm là ta đang đi trên con đường đến bờ an lạc giải thoát. Quay đầu là bờ - Sám hối nghiệp tội tiêu từ từ, như người đang nỗ lực bơi vào bờ mà mang nhiều vật nặng quá, nếu ta bỏ bớt thì mới bơi được vào bờ. Sám hối thì tội tiêu từ từ. Tập sám hối, làm phước, biết dừng lại là quay đầu. Tất cả mọi sự quay đầu, dừng lại đều không muộn màng. Không bao giờ trễ với người biết quay đầu. Sám hối ngoài nghĩa làm sạch thân tâm, còn mục đích nữa là để làm mới thân tâm, làm mới theo nghĩa tích cực, ngày hôm trước trong lòng mình là rác, ngày sau là hoa.

“Bao nhiêu lầm lỗi đều do tâm…

Tâm tịnh còn đâu dấu lỗi lầm

Sám hối xong lòng nhẹ nhõm

Ngàn xưa mây bạc vẫn thong dong.”


BÀI 2

A. DẪN NHẬP

Trong cuộc sống, chúng ta thường hay nghe câu nói: “Nhân vô thập toàn”, Nghĩa là phàm làm người thì chưa có ai hoàn hảo cả. Bởi vì, nếu hoàn hảo thì vị đó đã trở thành bậc Thánh rồi, nhưng vì chưa hoàn hảo nên họ mới làm người. Khi đã là người thì ít nhiều cũng có lỗi lầm sai sót.

Chúng ta sống trên đời này không ai là hoàn toàn trong sạch. Phật thường dạy: "Phàm còn xuống lên ba cõi, lăn lộn trong sáu đường, thì không một loài nào được hoàn toàn trong sạch, không một giống nào dứt hết tội lỗi". Bất cứ ai hiện hữu trong cuộc đời này cũng đều có thể phạm phải những lỗi lầm, sai sót dù ít hay nhiều. Bởi khi tâm ý mê mờ, thiếu sáng suốt thì mọi hành động, nói năng của ta rất dễ dàng vấp phải những lỗi lầm, sai sót, gây khổ đau cho bản thân và ảnh hưởng không tốt đến người khác. Do vậy, thành tâm ăn năn các tội lỗi mà mình đã gây tạo và tự nguyện với bản thân là không để tái phạm những lỗi lầm đó nữa. Đây là một việc làm đáng được trân trọng. Hình thức ăn năn, hối lỗi đó được gọi là Sám Hối.

Người đời xem lời xin lỗi là quan trọng vì biết nó là biểu hiện của con người văn minh, có đạo đức. Còn Trong Đạo Phật xem lời xin lỗi còn quan trọng hơn gấp nhiều lần, nó được nâng lên thành pháp tu căn bản, mà danh từ nhà Phật gọi là Sám Hối. Sám Hối là hành động tích cực, hướng tâm về nẻo thiện và khao khát được sửa đổi bản thân để thăng hoa cuộc sống. Đây là một phương pháp rất tích cực và hữu hiệu trong việc ngăn chặn sự tái diễn những hành vi bất thiện của 3 nghiệp.

         B. NỘI DUNG

            I. ÐỊNH NGHĨA

Sám hối là gì?

Chữ "Sám", tiếng Phạn gọi là Samma; Tàu dịch là "Hối quá".

Sám Hối có 5 nghĩa:

1. Sám là tự thú; Hối là thuận phục. Nghĩa là tự thú tội đã làm, thuận theo sự chỉ dạy của thiện tri thức (thầy mình), không dám tái phạm lại.

2. Sám là tu lai (sửa lại, làm lại); Hối là khí vãng (khí là bỏ; vãng là quá khứ, đã qua). Nghĩa là sửa việc sắp tới gọi là Sám, bỏ việc đã qua gọi là Hối.

3. Sám là cầu lai; Hối là ký vãng. Nghĩa là vứt bỏ quá khứ gọi là Hối, tìm đến tương lai gọi là Sám.

4. Sám Hối: nghĩa là hậu bất phục tạo. Nghĩa là từ nay về sau không dám tái phạm trở lại nữa.

5. Sám kỳ tiền khiên, Hối kỳ hậu quá.

Trong 5 nghĩa, nhưng nghĩa thứ 5 là bao gồm và đủ hết ý nghĩa của mấy điều trên, nên từ trước đến nay được lấy làm chuẩn. "Sám giả sám kỳ tiền khiên, Hối giả hối kỳ hậu quá" là được trích trong Kinh Pháp Bảo ĐànNghĩa là, Sám là ăn năn lỗi trước, còn Hối là chừa bỏ lỗi sau. Sám hối là tự mình ăn năn, hổ thẹn những lỗi lầm trước đây đã tạo, nguyện sửa đổi không dám tái phạm những lỗi lầm, những hành vi thiếu ý thức đó nữa. Đồng thời, thay đổi cách nhìn tích cực, bao dung hơn đối với mọi người và mọi loài trong cuộc sống thực tại.

Về mặt từ nguyên, Sám Hối vốn được sử dụng trong Phật giáo có nghĩa là thuyết tội hoặc thuyết ác, tức là nói lên những lỗi lầm hay việc làm phi pháp của mình, Luật tạng thường gọi là Phát lộ.

Như ông Viên Liễu Phàm đã nói:

“Dĩ tiền chủng chủng, ví như tạc nhật tử.

Dĩ hậu chủng chủng, ví như kim nhật sinh.”

Nghĩa là:

Những điều xấu mình làm từ trước,

Hôm qua kể như là ngày cuối cùng.

Những điều mình làm về sau,

Hôm nay là bắt đầu một cuộc đời mới.

Nếu dùng một chữ Sám hay một chữ Hối không thì chưa đủ ý nghĩa, nên các Tổ xưa ghép hai chữ lại thành danh từ "Sám Hối", dịch theo tiếng Việt là "ăn năn chừa lỗi". Như thế, trong chữ Sám hối có hàm nghĩa ăn năn, hối hận vì những lỗi lầm trong quá khứ, bất luận là lâu mau và bây giờ cho đến về sau, mình nguyện là không tái phạm nữa. Nếu biết việc của mình làm từ trước đến nay là quấy, là sai, bây giờ mình xin chuộc lỗi, mà sau nầy vẫn còn tái phạm thì không phải là đúng nghĩa Sám Hối trong Ðạo Phật. Như vậy, Sám hối là việc làm cụ thể, thiết thực mà mỗi người cần phải thực thi để đem lại lợi ích an vui cho tự thân và cho cuộc đời này.

Sám hối còn được giải thích “Sám” là “đầu”, “Hối” là “cúi xuống”, có nghĩa là “cúi đầu chịu tội”. Trong Phật pháp cũng vậy, những người vi phạm Giới luật, chỉ còn biết thuận theo đạo pháp, cúi đầu dưới chân Tam Bảo, chân thành thiết tha sám hối, biểu lộ từ nay về sau không dám làm các việc bất thiện như vậy nữa. Có vậy mới là thành tâm sám hối.

Còn có một cách giải thích khác: “Sám” là chỉ cho bạch pháp, còn “Hối” là hắc pháp. Hắc pháp là các tội ác, nên hối cải không được tái phạm. Bạch pháp là các thiện pháp, nên cần cầu và đúng pháp thực hành. Có nghĩa: Về “sám” là trước kia bỏ bê không tu học các thiện pháp, từ nay trở đi thệ nguyện tinh tiến dõng mãnh tu học không ngừng; Hối là sự sửa đổi về sau, trước kia từng làm biết bao việc bất thiện, từ nay về sau thệ nguyện tha thiết, thực lòng sửa đổi.

Ăn năn sám hối không chỉ là hối tiếc trước một việc làm sai trái đã qua mà chủ yếu là thấy sai để sửa sai.

             II. TẠI SAO PHẢI SÁM HỐI?

Trong Kinh Hoa Nghiêm Ðức Phổ Hiền Bồ tát có nói"Nếu tội lỗi chúng sanh có hình tướng thì tất cả hư không cũng không chứa hết". Thật thế, tội lỗi của chúng sanh chất chồng từ muôn vạn kiếp và truyền nối qua thời gian, bởi di truyền, phong tục, thói quen.v.v...

 Như trong Kinh Địa Tạng có nói rằng: “Tất cả những cử chỉ động niệm của chúng sanh trong cõi Nam Diêm Phù Đề không có điều gì chẳng phải là tội lỗi, huống nữa là những kẻ buông lung giết hại, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ trăm điều tội lỗi”.

Thực chất, trừ các bậc Thánh đã toàn thiện, còn chúng ta, sống trong đời này không ai tránh khỏi lầm lỗi, sơ sót. Do đó, điều quan trọng là mỗi người phải tự nhận biết những hành động sai trái của mình đã gây tạo mà sám hối, chừa bỏ. Nguyện giữ tâm hồn cho trong sáng, dù chỉ một vết lỗi nhỏ nhặt cũng đừng để vi phạm thì đó chính là hành động của người có trí tuệ.

Vậy, tội lỗi được tạo ra từ đâu? Từ ba nghiệp: Thân nghiệp, Khẩu nghiệp và ý nghiệp sanh ra. Thân thì sát sanh, trộm cướp, tà dâm. Miệng thì nói dối, nói lưỡi hai chiều, nói thêu dệt, nói lời ác. Ý thì khởi tham, sân, si. Trong đó ý là chủ đạo để sanh ra tội lỗi. Khi ý bị si mê bao phủ thì nó luôn sai sử thân và khẩu cùng làm ác với nó. Nên tội lỗi được thể hiện rõ ràng nhất khi thân làm ác và miệng thì nói ác.

Ai đem đau khổ đến cho mình. Do mình tạo nghiệp, nghiệp theo mình như bóng theo hình….Trong Kinh Trung Bộ, Kinh Tiểu Nghiệp Phân Biệt, bài kinh số 135, do HT Thích Minh Châu dịch ra Việt văn như sau. “Phật dạy: “Các loài hữu tình là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự của nghiệp. Nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc mà từ đó con người được sanh ra”. Chính vì nghiệp lực không hình tướng nên ta không thấy, nhưng nó luôn theo ta từ vô thỉ kiếp đến nay, nên mình mới bị quả báo khổ vui ở đời này, đời sau.

Đứng về mặt thời gian trong quá khứ, chúng ta có thể tạm phân chia ra thành hai thời là quá khứ gần và quá khứ xa. Quá khứ gần được tính từ trong kiếp hiện tại, từ khi chúng ta mới sinh ra đến nay. Đứng về thời gian quá khứ xa để nói là từ vô thỉ kiếp đến nay. Trong suốt thời gian đó, chúng ta đã gây tạo biết bao nhiêu là bất thiện nghiệp. Tất cả những nghiệp ấy được phát xuất từ ba nghiệp chính là thân, khẩu và ý.

Trong quá khứ gần, kể từ khi chúng ta được sanh ra đến nay, nếu là người có thiện căn sâu dày thì đã biết ăn chay từ khi còn nhỏ. Còn đối với chúng ta, để thỏa mãn khẩu vị của mình trong mỗi bữa ăn, chúng ta đã giết hại biết bao nhiêu sinh vật, bao nhiêu mạng sống để bồi bổ cho xác thân này. Như thế, chỉ đứng về thân nghiệp và kể riêng nghiệp sát thôi, thì chúng ta đã gây tạo vô số nghiệp rồi, chưa kể đến là khẩu và ý nghiệp nữa. Đối với khẩu nghiệp, vì để thỏa mãn sự chấp ngã của mình, vì muốn mình hơn, chúng ta đã phải thốt ra biết bao nhiêu lời nói ác làm tổn hại và đau khổ đến những người khác. Khi cơn sân hận nổi lên, chúng ta chỉ muốn nói, nói cho hơn, nói cho thỏa cơn tức giận mà mình không biết những lời nói đó như là thuốc độc, để khi người khác nghe phải buồn phiền, đau khổ, thậm chí là phải tự giận. Cho nên có câu nói: “lời nói không là dao, sao cắt lòng đau nhói…”. Về ý nghiệp, bởi vì vô minh nên chúng ta đã khởi biết bao nhiêu là ý nghĩ bất thiện. Chính vì những điều đó nên cứ đưa chúng ta mãi trôi lăn trong sanh tử luân hồi.

Trong cuộc sống, từ khi mới sanh ra đến nay, chúng ta đã bẩm thọ rất nhiều ân tình. Từ Thầy tổ, bạn bè, người thân, mà gần gũi nhất chính là cha mẹ của mình. Cha mẹ thì lúc nào cũng muốn cho con mình được tốt, nhưng chúng ta có nghĩ cho cha mẹ mình hay không. Phần nhiều, mình chỉ làm theo những gì mình thích, mặc dù điều đó làm trái ý của cha mẹ, sẽ làm cho cha mẹ buồn khổ, nhưng chúng ta vẫn cứ làm. Ngày nay, có một số giới trẻ trở thành tệ nạn xã hội, chúng làm những việc như cướp giật, hút chích, ăn chơi…Chính những hành động của chúng đã làm cho những bậc cha mẹ buồn và đau khổ vô cùng khi mình có một người con như thế. Thử hỏi có bậc cha mẹ nào muốn và dạy con mình thư thế không? Chắc chắn là không. Ai cũng muốn con mình trở thành người tốt, có ích cho gia đình và xã hội. Nhưng khi chúng làm những điều đó, chúng không hề nghĩ đến cảm giác của người thân, chúng chỉ nghĩ có lợi trong hiện tại cho mình là được. Chính những hành động đó đã là mang vô số tội lỗi rồi. Nếu xét kỹ lại, từ khi sinh ra đến nay, có người nào mà chưa hề một lần làm cho ai đó buồn hay đau khổ chưa? Chắc là chưa.

Từ trong quá khứ, chúng ta đã tạo biết bao nhiêu là lỗi lầm. Thử hỏi, ngày hôm nay, dù ít nhiều, mình cũng là người biết tu tập, cũng nhận định được điều sai điều đúng, vậy mà mình cũng gây tạo rất nhiều lỗi lầm. Hà huống gì, từ vô lượng kiếp về trước, khi chưa biết tu tập thì chúng ta đã gây tạo lỗi lầm nhiều biết chừng nào. Thậm chí, khi còn ở đời, chưa đi xuất gia, chưa hiểu biết Phật pháp, chúng ta cũng chưa ý thức được nhiều về sự tội lỗi của mình. Như vấn đề ăn uống của chúng ta, mặc dù là ăn thịt gà, thịt vịt, dê, heo.v.v...nhưng chúng ta cũng không hề nghĩ đó là tội lỗi. Chúng ta ăn một cách thản nhiên, không lo sợ. Nhưng khi xuất gia, hiểu Phật pháp rồi, thậm chí đạp lỡ một con kiến mình cũng thấy khó chịu lương tâm. Bởi vì mình biết, chúng cũng có mạng sống và cũng ham sống sợ chết. Khi thấu rõ được sự tội phước, mình mới thấy là mình đã tạo quá nhiều tội lỗi. Cho nên ngày nay, khi nhìn thấy cuộc sống của mình gặp nhiều chướng ngại, thân nhiều bệnh tật, nghèo đói khốn khổ, thì biết rằng từ trong quá khứ mình không khéo tu tập, đã gây tạo ác nghiệp quá nhiều, nên bây giờ phải chịu trả quả.

Một lúc nào đó trong cuộc sống này, ta phạm phải sai lầm ... Tất nhiên, khi ta làm, ta luôn cho rằng mình đúng, luôn tìm mọi cách để chạy tội và không bao giờ chấp nhận mình là người sai. Có những lúc ta biết mình làm sai nhưng không chịu thừa nhận, vì bản ngã trong ta còn quá lớn, do lòng tự ái mà ta không dám thừa nhận, hoặc là phải giữ sĩ diện cho mình…Chính vì điều đó nên nhiều khi khiến mọi người xa lánh chúng ta. Khi phạm lỗi, ta là một người phạm lỗi. Nhưng khi kết án bản thân. Ta lại cho mình là một người vô tội. Và bắt bản thân mình phải sống trong sự đè nén, đau khổ...

Trong thực tế, có những người mắc phải tội lỗi nặng nề thì họ sống với tâm trạng sợ hãi lo âu, ăn không ngon ngủ chẳng được yên vì những cơn ác mộng kéo dài. Mặc dù họ có của cải vật chất dư thừa nhưng đời sống thì bất an. Tuy nhiên, mọi thứ trên cuộc đời này đều có thể thay đổi, không có gì thực sự cố định cả. Do đó, đối với những người làm điều bất thiện nhưng họ biết thành tâm ăn năn hối cải và quyết chí tu hành thì vẫn có thể chuyển hóa được nghiệp xấu ác, trở thành một con người lương thiện hữu ích cho gia đình và xã hội.

Sám hối không chỉ là xin lỗi, mà còn là nhận ra trách nhiệm với những việc làm của mình. Bằng những hình thức sám hối, chúng ta có thể thanh lọc thân tâm, tội lỗi được giảm nhẹ, và ngăn chặn không cho tội lỗi phát sanh thêm nữa. Chúng ta không muốn sám hối tội lỗi mình, điều ấy chỉ tại ta thiếu tin tưởng vào luật nhân quả và có nghĩa là ta không sợ phạm tội. Nếu có lòng tin sâu nhân quả, ta sẽ tránh phạm dù chỉ một lỗi nhỏ.

Khi nào chúng ta còn đắm chìm trong sự kiêu căng của cái bản ngã của chính mình, thì không thể sám hối bằng tất cả tấm lòng chí thành, chí kính được. Vì thế, nên nhớ rằng, bản ngã bao giờ cũng là nguồn động lực làm phát sinh tội lỗi, và nó cũng đồng thời là cái động lực xúi giục chúng ta che dấu tội lỗi.

Những lúc chúng ta hành xử một cách dại khờ, hay trong những lúc nổi cơn sân si, kiêu mạn, tham lam, thù hận, tranh chấp, .v.v. bao nhiêu lần vì lợi ích cho riêng mình là bấy nhiêu lần chúng ta làm hại đến chúng hữu tình. Càng quán niệm như thế, chúng ta càng thấy rõ những lỗi lầm của mình hơn. Nếu một người bình thường mà tự cho rằng mình không có lầm lỗi gì hết và không cần sám hối, có nghĩa là người đó đã trở thành bất bình thường. Điều này rất nguy hiểm cho cuộc sống cả hiện tại và cả tương lai. Vì với một tâm niệm như thế, họ sẽ không bao giờ có cơ hội điều chỉnh hay chuyển hóa những thói hư, tật xấu của mình.

Trong cuộc sống, nếu ta thường xuyên tiếp xúc với các đối tượng không lành mạnh thì sẽ đi theo chiều hướng tiêu cực và dĩ nhiên là dẫn tới khổ đau, hệ lụy. Ngược lại, theo chiều hướng tích cực là ta biết gần gũi và học hỏi với những người có phẩm chất đạo đức cao đẹp, thì cuộc sống chúng ta ngày mỗi thăng hoa và thánh thiện hơn. Và chính vì sự thay đổi, đi theo chiều hướng tích cực, hướng tâm về con đường lành, nên dù là kẻ bất nhân, hung tàn cũng có thể trở thành người hiền lương đạo đức. Miễn là, ngay trong hiện tại họ biết khắc phục những lỗi lầm và tiếp xúc với các bậc thiện tri thức để học hỏi, noi gương thì chắc chắn đời sống của họ sẽ được chuyển đổi trở thành tốt đẹp hơn.

Khi Sám hối chúng ta cần phải ý thức những vấn đề như sau:

  • Tin nhân quả rõ ràng, biết gieo nhân xấu sẽ gặt quả xấu.
  • Sanh lòng rất sợ hãi đối với những điều bất thiện mình đã làm, nguyện từ nay về sau không dám làm nữa.
  • Hộ trì Phật pháp để tăng phước mà tiêu trừ tội
  • Khởi tâm tàm quý. Tự tàm quý tha. Tàm là hổ thẹn với mình. Quý là hổ thẹn với người.
  • Phát thệ nguyện lớn, độ thoát chúng sanh
  • Thường nhớ nghĩ đến chư Phật mười phương
  • Quán tính tội không sanh không diệt

        III. CÁC CÁCH SÁM HỐI

                 1. Sám hối sai lầm

         Người thế gian, khi có tội lỗi với ông bà, làng nước, thường dùng trầu ruợu, hay heo gà, tiền bạc để tạ tội, xin lỗi. Có khi người ta lại dùng hình thức "đoái công chuộc tội", như khi phạm tội với triều đình hay trong quân ngũ chẳng hạn.

         Trong các ngoại đạo, người ta cũng có dùng nhiều hình thức chuộc tội: như có đạo dùng máu thú vật để xin rửa tội với thần linh; có đạo chủ trương xuống tắm ở những sông, suối mà người ta cho là linh thiêng thì hết tội; có đạo lại đem phẩm vật để xin Thánh Thần xá tội; có đạo lại chủ trương khổ hạnh, ép xác như đánh đập thân mình, nhịn đói khát, chịu nóng rét, nằm gai nếm mật để được giải thoát tội lỗi. Những cách chuộc tội như thế đều sai lầm hết. Tội lỗi thuộc về tâm lý, không có hình tướng. Vậy thì làm sao có thể lấy vật chất như nước, máu huyết, phẩm vật hay xác thân để làm sạch tội được?

                 2. Sám hối chân chính

Ðức Phật dạy rằng tội lỗi do tâm của người tạo ra, không ai có quyền thưởng phạt được. Kẻ gieo giống xấu thì ăn trái dở, người trồng giống quý thì hưởng quả ngon. Tội lỗi đã từ tâm tạo thì cũng phải từ tâm mà sám. Lời nói thật rõ ràng, chí lý, hợp với thực nghiệm. Vậy chúng ta muốn hết tội, phải y theo những pháp Sám hối chân chánh của Ðạo Phật mà thực hành. Trong Ðạo Phật, có 4 pháp Sám hối sau đây, có pháp thuộc về sự, có pháp thuộc về lý:

         a) Tác pháp sám hối: Pháp sám hối này thuộc về sự, phải lập giới đàn và thỉnh thanh tịnh Tăng chứng minh, nên gọi là tác pháp. Khi vào giới tràng, mình phải thành thật tỏ bày tội lỗi một cách thành khẩn, chí tâm ăn năn và nguyện về sau không tái phạm nữa. Một lòng thành kính sám hối như vậy, khi giới thể được thanh tịnh, tức là hết tội.

          b) Thủ tướng sám hối: Pháp nầy thuộc về sự và khó hơn pháp trước. Phật chế pháp này, là sám hối thuộc quán tưởng, cho những người tu hành có trình độ cao, hoặc ở chỗ không có Tăng, hay có nhưng không được thanh tịnh. Muốn tu pháp này, hành giả phải đến trước tượng Phật hay Bồ tát, thành tâm lễ bái, trình bày những tội lỗi đã phạm, và nguyện ăn năn chừa bỏ. Làm như thế từ 1 ngày, 3 ngày, 7 ngày, 49 ngày, và mãi mãi đến khi nào thấy được hảo tướng: như thấy hào quang, hoa sen báu, thấy Phật, Bồ tát đến xoa đầu v.v... thì mới thôi.

         c) Hồng danh sám hối: Pháp sám hối này cũng thuộc về sự, do Ngài Bất Ðộng Pháp Sư đời nhà Tống bên Trung Hoa soạn ra. Ngài rút 53 danh hiệu Phật trong Kinh "Ngũ Thập Tam Phật" tức là từ Ðức Phật Phổ Quang cho đến Ðức Phật Nhất Thế Pháp Tràng Mãn Vương và rút 35 hiệu Phật trong Kinh "Quán Dược Vương, Dược Thượng", với Pháp thân Ðức Phật A-Di-Ðà, sau thêm vào kệ Phổ Hiền Ðại Nguyện thành nghi thức sám hối này, tổng cộng là 108 lạy, để ám chỉ trừ 108 phiền não. Nghi thức sám hối này, nếu ai chí thành kính lễ, thì sẽ diệt trừ được những phiền não và tội lỗi đã tạo, trong đời hiện tại cũng như nhiều đời quá khứ. Ðức Phật Tỳ-Bà-Thi nói: "Nếu chúng sanh nào nghe danh hiệu 53 vị Phật này, thì trăm ngàn ức kiếp không đọa vào ba đường ác". Ðức Phật Thích Ca nói: "Thuở xưa, đời Phật Diệu Quang, ta đi tu nhằm đời mạt pháp, nhờ được nghe danh hiệu 53 vị Phật này và thành tâm lễ bái mà tránh khỏi những đau khổ trong đường sanh tử luân hồi nhiều kiếp". Còn 35 danh hiệu Phật sau, từ Ðức Phật Thích Ca cho đến Ðức Phật Bửu-Liên-Hoa Thiện-Trụ-Ta-La-Thọ Vương thì trong Kinh Đại Bửu Tích nói: "Nếu tất cả chúng sanh, hoặc phạm tội ngũ nghịch hay thập ác, đến muôn kiếp không thể sám hối, chỉ xưng danh hiệu 35 vị Phật này và lễ bái thì bao nhiêu tội chướng đều tiêu trừ".

         Hồng danh của Chư Phật có công đức không thể nghĩ bàn như vậy nên Ngài Bất Ðộng Pháp Sư mới soạn ra để làm nghi thức Sám hối. Pháp Hồng Danh Sám Hối hiện nay hầu hết các chùa đều thực hành theo.

Vì khi hành giả lễ bái, thì động cơ tạo nghiệp của thân bị đình chỉ. Đồng thời khi lễ lạy, thì hành giả dẹp trừ được tâm ngã mạn cống cao và hướng về Phật với lòng tin vững chắc không còn nghi ngờ.

Như vậy, là phá trừ được hai thứ phiền não gốc “mạn” và “nghi”. Nên nói lạy Phật có phước là ở chỗ đó. Và khi thân lạy Phật tức thân không tạo nghiệp ác. Miệng thì xướng danh hiệu Phật nên không nói lời ác, thế là khẩu nghiệp được thanh tịnh. Ý tưởng nhớ đến Phật nên không nghĩ điều quấy ác, như thế ý nghiệp được thanh tịnh. Chỉ một hành động lạy Phật đơn giản như thế mà dứt trừ được ba nghiệp tạo tội của thân, miệng, ý.

              d) Vô Sanh Sám Hối: Pháp này thuộc về lý sám hối, rất cao và khó, bậc thượng căn mới có thể thực hành được

                    - QUÁN TÂM VÔ SANH: Nghĩa là quan sát tự tâm mình hiện tiền không sanh. Như trong Kinh Kim Cang nói: "Tâm quá khứ không thể được, tâm hiện tại chẳng có, tâm vị lai cũng không". Quán trong ba thời gian đều không có tâm thì vọng niệm không từ đâu mà có, nếu vọng niệm không có thì các tội lỗi cũng không. Kinh nói: "Tội từ nơi tâm sanh mà cũng từ nơi tâm diệt. Nếu tâm này không sanh thì tội cũng chẳng còn, thế mới thật là sám hối".

Vì bản tâm của chúng ta thường hằng vắng lặng sáng suốt, bất sanh bất diệt. Tội có ra là do tâm tạo. Đó là tâm vọng tưởng. Do bất giác khởi vọng tạo nghiệp. Tâm nầy không thật có. Tâm đã không thật, thì tội làm sao có thật được? Vì tội do tâm sanh, mà tâm vốn không sanh, thì tội cũng không có. Đó là tánh tội vốn không. Hằng sống với thể tánh nầy, thì mọi tội lỗi sẽ không còn. Thí như bóng tối dù trải qua hằng triệu tỷ năm, nhưng khi có ánh sáng của ngọn đèn chiếu vào, thì bóng tối kia sẽ tan biến ngay. Vì thể của bóng tối vốn không thật.

                            - QUÁN PHÁP VÔ SANH: Nghĩa là quan sát thật tướng (chân tánh) của các pháp không sanh. Chữ "thật tướng", nghĩa là cái tướng ấy không sanh không diệt, không hư dối; từ xưa đến nay nó vẫn thường như thế, không bị thời gian thay đổi, hay không gian chuyển dời, suốt xưa thấu nay, nên gọi là thật tướng (Tướng chân thật). Nó cũng có tên là chân như hay chân tâm... Khi nhận được thật tướng rồi thì các giả tướng đều không còn. Lúc bấy giờ những tội lỗi (giả tướng) kia không còn gá nương vào đâu mà tồn tại. Trong Kinh Quán Phổ Hiền có chép: "Muốn sám hối, phải quán thật tướng của các pháp thì tội mới hoàn toàn tiêu diệt".

Trong bốn phương pháp trên thì có Hồng Danh Sám Hối là phương pháp thông dụng, dễ thực hành. Hành giả dễ hành trì trong sự tu tập chuyển đổi nghiệp quả của mình.

          IV. PHÁT TRIỂN HẠNH LÀNH ĐỂ TIÊU TRỪ TỘI LỖI CŨ

Làm lễ sám hối xong, phải phát triển những hạnh lành cho nhiều, để tiêu trừ những tội lỗi cũ.

                  1. Luận về tội lỗi thời gian đã qua:
Những tội lỗi xưa của chúng ta rất nhiều, có thể nói là vô số. Sự sống của chúng ta tiếp nối với nhau từ đời nọ đến đời kia, như một xâu chuỗi dài vô tận. Rồi cứ trong mỗi đời, từ sanh đến tử, từ tử đến sanh, chúng ta cứ tạo thêm tội mãi. Từ cái lỗi nhỏ đi đến cái tội lớn, tạo thành một sức mạnh gọi là nghiệp lực, dắt dẫn chúng ta vào trong ba cõi sáu đường.

                       2. Phát triển hạnh lành:

Khi ý thức được nghiệp lực chúng ta đã gây tạo từ vô thỉ kiếp đến nay rất nhiều thì phải thành tâm ăn năn sám hối và nguyện bài trừ những nghiệp bất thiện và tăng trưởng những nghiệp thiện. Điều này chúng ta cần nên tu tập pháp Tứ Chánh Cần là tinh tấn ngăn ngừa những điều ác chưa phát sanh. Tinh tấn dứt trừ những điều ác đã phát sanh. Tinh tấn phát sanh những điều lành chưa phát sanh. Tinh tấn tăng trưởng những điều lành đã phát sanh. Như trước đây, mình hay sát sanh thì bây giờ nên phóng sanh, ăn chay; trước đây hay trộm cướng đồ vật của người thì nay phải phát tâm bố thí, cúng dường, hộ trì Tam Bảo…Khi nghiệp thiện mạnh rồi thì nó sẽ có sức mạnh để đẩy lùi nghiệp ác, lúc đó nghiệp ác không có cơ hội để phát triển. Như khi chúng ta duy trì chánh niệm thì tà niệm không thể phát sanh.

Trong lòng mỗi chúng ta không phải toàn chứa đựng những tánh xấu xa. Nếu tánh xấu đã có từ muôn đời thì tánh tốt cũng đã có từ vô thuỷ. Chúng ta mỗi người đều có Phật tánh là cái mầm của muôn hạnh lành, cái mầm ấy đã bị chôn vùi dưới bao lớp dục vọng, si mê. Bây giờ muốn tiêu trừ dục vọng thì chúng ta phải tạo điều kiện, cho cái mầm Phật tánh trổ lá, lên hoa, kết trái Bồ đề. Ðiều kiện làm cho mầm Bồ Đề phát triển là cần phát khởi những hạnh lành như: Từ bi, Hỉ xả, Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn v.v... Nếu chúng ta phát triển những tính tốt ấy, tất nhiên những tánh xấu không có đất để mọc lên nữa. Như khi chúng ta trồng lúa, nếu lúa tốt thì cỏ không có cơ hội để mọc lên.

            V. TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC SÁM HỐI

Trong Kinh Tăng Chi Bộ, Chương 2, Phẩm Hiền Ngu, Đức Thế Tôn dạy rằng, có hai hạng người đáng được tán thán khen ngợi là kẻ có trí: “Này các Tỳ-kheo, có hai loại người có trí. Thế nào là hai? Người có phạm tội là thấy có phạm tội, và người chấp nhận người khác như pháp phát lộ tội của mình. Này các Tỳ-kheo, có hai loại người có trí này”.

Điều đó được tóm gọn trong câu mà chúng ta thường nghe ở trong Phật pháp là: “Đức Phật dạy có hai hạng người mạnh mẽ. Thứ nhất đó là người không phạm tội và thứ hai là người có phạm tội mà biết ăn năn sám hối. Đó là hai hạng người có căn lành tốt, lực trí huệ kiên cường, Bồ Đề tâm kiên cố.” Vì vậy, tha thiết sám hối thì không tội nào mà không tiêu.

Đạo Phật luôn khẳng định “quay đầu là bờ”, khi đã thực sự từ bỏ con đường tối tăm để bước lên con đường tươi sáng thì sự chuyển hóa bắt đầu xảy ra. Nếu như chúng ta giữ mức tinh tấn trên hành trình ấy thì sớm muộn ta cũng đạt được giác ngộ. Nhưng “quay đầu là bờ” không có nghĩa là vừa mới hồi tâm phản tỉnh thì ta sẽ giác ngộ ngay, mà đó chỉ là lời động viên khích lệ cho những ai khi quay đầu rồi thì một ngày nào đó cũng sẽ đến được bờ an lạc. Chúng ta nên biết rằng: “không có một thánh nhân nào không có quá khứ tội lỗi, và cũng không có một tội nhân nào mà không có tương lai tươi sáng”.

Một khi hạt giống tốt, năng lượng thiện lành có mặt và ta quyết tâm giữ nó thì những nghiệp xấu khó có thể phát sanh. Điều tiên quyết là ta có nhìn nhận ra được lỗi lầm và có thành tâm để chuyển hóa hay không?

Con đường tu tập bằng pháp Sám hối đóng một vai trò quan trọng trong mọi tiến trình tu tập của chúng ta. Chính sám hối là con đường duy nhất để chuyển hóa mọi lỗi lầm của mình thông qua sự tịnh hóa ba nghiệp. Nói khác đi, Sám hối là con đường “thánh hoá” cuộc sống của chúng ta, nó làm cho cuộc sống trở nên có ý nghĩa và cao đẹp. Chính vì thế, trong Đạo Phật có nhiều phương thức sám hối để giúp mọi người chuyển hóa nghiệp lực của chính bản thân mình vốn đã được tích tụ từ vô lượng kiếp.

         Khi chúng ta vấp phải sự sai lầm, cần có tâm ăn năn sám hối, vì sám hối là pháp làm trong sáng tâm linh, là nền tảng thăng hoa cuộc sống đạo đức, cũng là cơ sở cho người xuất gia và tại gia vương tới cuộc sống giác ngộ và giải thoát.

        • Sám hối có hết tội hay không?

Ở thế gian, nếu chúng ta có gây tội gì, khi vào tù, nếu biết ăn năn hối lỗi, tự sửa đổi bản thân, mỗi năm đến ngày lễ thì tội của chúng ta sẽ được giảm nhẹ đi. Còn đối với người tu tập theo pháp sám hối của Phật giáo, tức là khi sám hối, chúng ta nguyện sửa đổi chính bản thân mình. Đồng thời hồi hướng công đức lành chúng ta làm được đến những oan gia trái chủ từ vô lượng kiếp đến nay. Cho nên, nghiệp lực theo đó cũng được hóa giải.

Nhờ tâm chân thành sám hối, làm mọi điều thiện thì sẽ không còn duyên xấu để trổ quả xấu, nếu ác nghiệp đến cũng nhẹ hơn và thời gian chịu quả báo sẽ ngắn hơn rất nhiều. Cũng như vua A Xà Thế giết cha hại mẹ, được Phật cho biết sau khi chết, đáng lẽ ông ta phải bị đọa đến địa ngục A Tỳ, nhưng nhờ biết thành tâm sám hối, làm lành, hộ trì Tam Bảo…mà chỉ đọa vào địa ngục nhẹ hơn, trong thời gian rất ngắn, sau đó sẽ thoát khỏi địa ngục. ông Vô Não giết người vô kể, vậy mà khi có nhân duyên gặp Phật, biết ăn năn sám hối và tinh tấn tu tập, nên ông đã chứng được thánh Quả A La Hán và trả quả báo nhẹ hơn so với việc ông đã gây tạo. Vua A Dục vì có lòng tham vọng quá lớn nên đã tranh đoạt ngôi vua của anh mình, đem binh chinh phạt các nước, giết người vô số kể, vậy mà khi đầy đủ nhân duyên, gặp được Phật pháp, thì ông là một người hộ pháp đắc lực, góp phần xiển dương chánh pháp. Như thế thì làm sao mà tội không giảm nhẹ được.

             VI. LỢI ÍCH CỦA VIỆC SÁM HỐI

Sám hối có công năng như một biện pháp chữa trị, nuôi dưỡng một tâm hồn thanh cao. Khi học về Sám hối thì đồng thời ta cũng biết cách tha thứ lỗi lầm của người, giúp người nhận ra lỗi của mình. Vì họ cũng như ta, khi làm điều gì đó họ cũng cho rằng họ đúng, và họ cũng có những tòa án cho riêng mình. Cảm ơn những câu chuyện đã qua vì nó mà ta có thể bước thêm một bước nữa trong cuộc hành trình trưởng thành.

Nếu như xin lỗi là hành động hướng tới đối tượng để hàn gắn vết thương trong tâm người khác thì sám hối là thái độ quay trở về chữa trị tì vết lỗi lầm trong tâm mình. Hiểu được và hành trì pháp sám hối thì giúp chúng ta khó phạm lỗi vì mình đã có sự tỉnh giác. Hóa giải mọi oan gia trái chủ nên tâm luôn thanh thản nhẹ nhàng; gia đình hạnh phúc, xã hội an ổn, vững mạnh vì ít người phạm tội. Khi tội đã diệt thì phước sẽ sanh, căn lành tăng trưởng, là nền tảng tu hành mau đắc quả giải thoát….

Phản tỉnh: Chúng ta phải luôn giữ chánh niệm và quán sát thân khẩu ý từng giây phút không ngừng nghỉ, khi có ý nghĩ bất thiện khởi lên thì phải diệt trừ chúng, không cho chúng phát sanh thành hành động. Có phản tỉnh chúng ta mới biết được lý do tại sao vấp phải sự sai lầm này, từ đó cho chúng ta một bài học để tránh sự lập lại sự sai lầm trong tương lai. Đây là ý nghĩa và lý do tại sao Đức Phật khuyên chúng ta cần phải sống phản tỉnh.

Nếu thường xuyên sám hối, cho dù chưa trở thành bậc Thánh nhưng cũng sẽ trở nên người hiền. Những lợi lạc sẽ đến chắc chắn như:

  • Thiện Duyên Tăng Trưởng.
  • Nghiệp Chướng Tiêu Trừ
  • Tham Sân Si Giảm
  • Thân Tâm An Lạc
  • Tu Tập Tinh Tấn.

Trong cuộc sống, khi mình mắc lỗi với ai, nếu chưa thể xin lỗi được, mình thấy trong lòng khó chịu, không an, nhưng khi hạ mình xin lỗi rồi thì cảm thấy dễ chịu và thoải mái vô cùng. Sám hối cũng thế, nếu như chúng ta hiểu phương pháp sám hối của Phật giáo có ý nghĩa giúp cho con người tự kiểm soát lại hành vi của chính mình, và khi phát hiện 3 nghiệp thân khẩu và ý đã lỡ làm những hành vi bất thiện, thì Sám Hối của Đạo Phật là phương pháp giúp cho chúng ta làm trong sạch và có trách nhiệm ngăn ngừa các lậu hoặc phát sinh trong tương lai, bằng cách phản tỉnh và có thái độ ăn năn hối hận những lỗi lầm đó.

C. KẾT LUẬN

Ý nghĩa Sám Hối trong Đạo Phật không giống như là nghi thức rửa tội ở các tôn giáo khác đã làm, mà nó mang ý nghĩa nhận sai và sửa sai. Nếu chúng ta thừa nhận là con người ai cũng phạm phải sai lầm, thì phương pháp sám hối của Đạo Phật có chức năng giúp cho người đó có đủ năng lực làm trong sạch cuộc sống, bằng cách nhìn thấy và chấp nhận sửa sai lỗi lầm của mình. Thái độ nhìn nhận và sửa sai là hành vi biết phục thiện, biết hổ thẹn những hành vi sai lầm của mình, biểu hiện ý chí cầu tiến.

Sám hối là chiếc áo giáp bảo vệ và ngăn chặn không cho 3 nghiệp phát sinh hành vi bất thiện. Nếu như con người sống bằng 3 nghiệp thiện thì đó là nền tảng để xây dựng đời sống hạnh phúc của thế gian, và cũng là nhân tố chính để trở thành bậc Thánh. Trong bốn pháp Sám Hối của Ðạo Phật, có pháp thuộc về sự, có pháp thuộc về lý, có pháp cao, có pháp thấp. Vậy, phải tùy theo căn cơ và hoàn cảnh của mỗi người mà áp dụng cho thích hợp.

Nếu chúng ta bình tâm suy nghĩ, căn cứ từ những kinh nghiệm của đời sống hằng ngày sẽ cho chúng ta thấy rõ điều đó, gia đình mất hạnh phúc là gia đình có đời sống bất chính, thiếu sự hiểu biết và cố chấp, không biết phục thiện, không nhìn thấy lỗi lầm của mình, chỉ nhìn lỗi của người, đó là nguyên nhân dẫn đến mất hạnh phúc và ngày càng tạo ra những nghiệp bất thiện. Hơn thế nữa, phương pháp Sám Hối của Đạo Phật là nền tảng cơ bản cho những ai muốn thành đạo giác ngộ và giải thoát.

         Vậy ai là người muốn hết tội lỗi; ai là người muốn giải thoát sanh tử luân hồi; hãy cùng nhau thực hành các pháp sám hối của Ðạo Phật, để trước là cải thiện đời sống cá nhân, sau là đem lại đời sống an lạc tốt đẹp cho toàn xã hôi. Mọi người hãy luôn sống chánh niệm tỉnh giác để ngăn ngừa sự bất thiện của ba nghiệp.

“Nếu sau này tôi có làm gì lỗi

Xin mọi người hãy chỉ cho tôi.

Chỉ tôi biết, thế nào là lỗi

Sai điều gì và phải sửa làm sao.”

Chia sẻ
Phật học liên quan