Nhân quả
Giáo lý nhân quả dạy cho ta biết chế ngự mọi bất hạnh, ngăn ngừa ác tâm sanh khởi, xua tan cái nghiệp quả oan oan tương báo, đem lại niềm an lạc cho tự thân, cho tha nhân và cho xã hội.
A. DẪN NHẬP
Giáo lý của Đạo Phật không còn hạn hẹp, thu mình trong một đất nước Ấn Độ cổ đại, mà đã vượt qua muôn trùng không gian và thời gian để đến với con người. Giáo lý này không chỉ vì mục đích giải thoát cho tự thân mà còn vì an vui hạnh phúc cho tha nhân và mọi loài. Tư tưởng triết lý của Đạo Phật đã thấm nhuần trong lòng của mỗi người. Một trong những giáo lý rất gần gũi với người Việt Nam chính là giáo lý nhân quả. Chính triết lý này đã ăn sâu vào hệ tư tưởng của mọi tầng lớp trong xã hội. Nó không chỉ ảnh hưởng trên lý thuyết thông qua những bài giảng, qua kinh sách mà đã được thể hiện rõ nét qua cách sống, qua ý thức thực hành một cách tự nhiên, trở thành một bản năng vốn có của con người. Và cũng chính triết lý này, đã cất lên tiếng chuông cảnh tỉnh, để nhắc nhở mọi người, cùng nhau ý thức và xây dựng cho mình một đời sống lành mạnh nhất.
B. NỘI DUNG
I. ÐỊNH NGHĨA
"Nhân" là nguyên nhân, "Quả" là kết quả. Nhân là cái mầm. Quả là cái hạt, cái trái do mầm ấy phát sinh. Nhân là năng lực phát động, Quả là sự hình thành của năng lực phát động ấy. Nhân và Quả là hai trạng thái tiếp nối nhau, tương quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà có. Nếu không có Nhân thì không có Quả; nếu không có Quả thì không có Nhân.
Nếu nhân là hạt giống thì quả là mầm cây. Nếu nhân là mầm cây thì quả là sự đơm hoa kết trái . . . Mỗi hiện tượng vừa là nhân mà cũng vừa là quả. Tương quan nhân quả ấy gọi là tương quan duyên sinh và đã được Đức Phật nói đến qua giáo lý duyên khởi. Từ nhân đến quả phải trãi qua một quá trình chịu sự tác động và ảnh hưởng to lớn của các yếu tố duyên theo một tiến trình tất yếu (nhân- duyên- quả). Vì vậy, đôi lúc ta thấy tuy quả cùng loại với nhân nhưng vẫn khác nhau. Đó là tùy thuộc vào sự tác động mạnh hay yếu, thuận hay nghịch của các duyên ở trung gian mà cho kết quả sớm hay muộn, thậm chí không đưa đến kết quả.
Chính trong nhân hiện tại đã hàm chứa quả vị lai, và chính trong quả hiện tại đã ẩn chứa hình dáng của nhân quá khứ. Một sự vật mà ta gọi là nhân, là khi nó chưa biến thành cái quả mà ta quan niệm; một sự vật mà ta gọi là quả khi nó đã biến thành trạng thái mà ta quan niệm. Một vật đều có nhân và quả: đối với quá khứ thì nó là quả, nhưng đối với tương lai thì nó là nhân. Nhân và quả đắp đổi cho nhau, tiếp nối nhau không bao giờ dứt. Nhờ sự liên tục ấy mà trong một hoàn cảnh nhất định, người ta có thể đoán biết được tương lai của một sự vật hay của một con người. Cũng chính điều này mà con người ta có thể hoạch định kế hoạch cho tương lai của mình, chuẩn bị trước những gì cần thiết cho ngày mai.
II. NHỮNG ĐẶC TÍNH CỦA NHÂN QUẢ
Vũ trụ, vạn vật không phải tuần hoàn, biến dịch một cách tự nhiên, mà nó tuân theo một cái luật chung. Luật đó là luật Nhân quả. Luật này không phải do một đấng thần linh hay xã hội nào đặt ra, mà là một luật thiên nhiên âm thầm, lặng lẽ, nhưng đúng đắn vô cùng. Người đời vì không tường tận nên không thấy được luật ấy. Do đó, họ đã hành động một cách bừa bãi, thiếu tinh thần trách nhiệm đối với bản thân mình và với những người chung quanh. Và cũng chính vì thế mà họ đau khổ, lặn hụp mãi trong biển mê mờ, tội lỗi. Ðức Phật vì lòng thương tưởng đến chúng sanh, nên Ngài đã chỉ rõ cho mọi người thấy và hiểu được vấn đề này một cách tường tận, để tránh xa những bất thiện pháp, vun trồng cội lành để đem lại an vui cho mình và cho người.
Khi nói đến nhân quả là nói đến một tiến trình tạo tác của con người để đưa đến một đời sống hạnh phúc hay khổ đau. Trong suốt tiến trình đó, con người chính là chủ nhân tạo tác và đóng vai trò trung tâm chủ đạo. Như trong kinh Đức Phật dạy: “Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc mà từ đó con người được sanh ra”.
Không chỉ ở con người mà tất cả mọi sự vật hiện tượng trong vũ trụ đều vận hành theo một quy luật chung trong một tiến trình tất yếu là nhân quả. Quy luật nhân quả dường như đã chi phối và tác động đến mọi sinh hoạt của nhân loại cũng như tất cả các sự vật hiện tượng. Vấn đề này nó được phân chia thành các loại như sau:
1. Nhân thế nào thì quả thế ấy
Nếu ta muốn có quả cam thì ta phải ươm hạt giống cam; nếu ta muốn có hạt đậu thì ta phải gieo giống đậu. Không bao giờ ta trồng cam mà lại được đậu, hay trồng đậu mà lại được cam. Nói một cách khác, nhân với quả bao giờ cũng đồng một loại với nhau. Hễ nhân đổi thì quả cũng đổi.
2. Một nhân không thể sanh ra quả
Mọi sự vật hiện tượng trong vũ trụ nầy đều là sự tổ hợp của nhiều nhân duyên mà tạo thành. Cho nên, không có một nhân nào có thể tự tác thành kết quả được nếu không có sự giúp đỡ của nhiều nhân khác. Mọi sự vật, hiện tượng đều phải có sự trợ duyên của tăng thượng duyên, sở duyên duyên.... Như nói rằng, hạt lúa sanh ra cây lúa là nói một cách giản dị cho dễ hiểu, chứ thật ra, hạt lúa không thể sanh ra gì được cả nếu để một mình nó giữa khoảng trống không, thiếu không khí, ánh sáng, đất, nước, nhân công.
3. Trong nhân có quả, trong quả có nhân
Chính trong nhân hiện tại đã có hàm chứa cái quả vị lai; cũng chính trong cái quả hiện tại, đã có hình bóng của nhân quá khứ. Một sự vật mà ta gọi là nhân, là khi nó chưa biến chuyển, hình thành ra cái quả mà ta mong muốn, chờ đợi. Một sự vật ta gọi là quả, là khi nó chưa biến chuyển, hình thành ra trạng thái mà ta mong đợi, ước muốn. Mỗi vật, vì thế, đều có thể gọi là nhân hay quả được: đối với quá khứ, thì nó là quả, nhưng đối với tương lai thì nó là nhân. Nhân và qủa tiếp nối nhau, đắp đổi nhau như những vòng trong sợi dây chuyền.
4. Sự phát triển nhanh và chậm từ nhân đến quả
Sự biến chuyển từ nhân đến quả, có khi nhanh khi chậm, chứ không phải bao giờ cũng diễn tiến trong một thời gian đồng nhất.
Có những nhân và quả xảy ra kế tiếp nhau, liền nhau, nhân vừa phát khởi thì quả đã xuất hiện, như khi vừa đánh xuống mặt trống (nhân) thì tiếng trống liền phát hiện ra (quả); Có khi nhân đã gây rồi, nhưng đợi một thời gian, quả mới hình thành, như từ khi gieo hạt giống cho đến khi gặt lúa, cần phải có một thời gian ít nhất là ba bốn tháng.
Có khi từ nhân đến quả cách nhau từng chục năm, như đứa trẻ mới cắp sách đi học đến ngày thành tài, phải qua một thời gian ít nhất là mười năm.
Vì lý do mau chậm trong sự phát hiện cái quả, chúng ta không nên nóng nẩy hấp tấp mà cho rằng, cái luật nhân quả không hoàn toàn đúng khi thấy có những cái nhân chưa phát sinh ra quả.
III. PHÂN TÍCH HÀNH TƯỚNG NHÂN QUẢ TRONG THỰC TẾ
Như các đoạn trên đã nói, nhân quả chi phối tất cả vũ trụ vạn hữu, không có một vật gì, dù là động vật hay thực vật, vật chất hay tinh thần, thoát ra ngoài luật nhân quả được. Ở đây, để có một quan niệm rõ ràng hơn về luật nhân quả, chúng ta hãy tuần tự phân tích hành tướng của nhân quả trong mọi sự vật:
1. Nhân quả có trong những vật vô tri vô giác
Nước bị lửa đốt thì nóng, bị gió thổi thì thành sóng, bị lạnh thì đông lại. Nắng lâu ngày thì đại hạn, mưa nhiều thì lụt, gió nhiều thì sanh bão.
2. Nhân quả trong loài thực vật
Hạt cam thì sanh ra cây cam, cây cam thì sanh trái cam. Nói một cách tổng quát, giống nào thì sanh quả ấy.
3. Nhân quả trong các loài động vật
Loài thú sanh con, con ấy là quả. Con thú lớn lên, trở lại làm nhân sanh con là quả. Như loài chim sanh ra trứng, nên chúng ta gọi trứng là nhân, chờ khi ấp nở thành con là quả; con chim ấy trở lại làm nhân, sinh ra trứng là quả.
4. Nhân quả nơi con người
Về phương diện thể chất: Thân tứ đại là do bẩm thụ tinh cha huyết mẹ mà hình thành nên và do hoàn cảnh nuôi dưỡng. Vậy cha mẹ và hoàn cảnh là nhân, người con trưởng thành là quả, và cứ tiếp nối như thế mãi, nhân sanh quả, quả sanh nhân, không bao giờ dứt.
Về phương diện tinh thần: Những tư tưởng và hành vi trong quá khứ, tạo cho ta những tánh tình tốt hay xấu của một nếp sống trong hiện tại. Tư tưởng và hành động quá khứ là nhân, tánh tình nếp sống tinh thần trong hiện tại là quả. Tánh tình và nếp sống này là nhân, để tạo ra những tư tưởng và hành động trong tương lai là quả.
Ðể nhận rõ cái phần tinh thần quan trọng nầy, chúng ta hãy dành riêng ra một mục, để đặt biệt chú ý đến hành tướng của nó dưới đây.
IV. NHÂN QUẢ VỀ PHƯƠNG DIỆN TINH THẦN
1. Nhân quả của tư tưởng và hành vi không tốt
Tham: Thấy tiền của người, nổi lòng tham lam sanh ra trộm cắp, hoặc giết hại người là nhân; bị chủ đánh đập hoặc đâm chém, phải tàn tật, hay bị nhà chức trách bắt giam trong khám đường, chịu những điều tra tấn, đau khổ là quả.
Sân: Người quá nóng giận, đánh đập vợ con, phá hoại nhà cửa, chém giết người là nhân; nhà cửa tiêu tan, luật pháp trừng trị, chịu nhiều điều khổ cực là quả.
Si mê: Người say mê sắc dục, liễu ngõ hoa tường, không có biết sự hay dở, phải trái là nhân; làm cho gia đình lủng củng, thân thể suy nhược, trí huệ u ám là quả.
2. Nhân quả của tư tưởng và hành vi tốt
Như trên chúng ta đã thấy, những tư tưởng hành vi xấu xa tạo cho con người những hậu quả đen tối, nhục nhã, khổ đau như thế nào, thì những tư tưởng và hành vi đẹp đẽ tạo cho con người những hậu quả sáng lạng, và an vui như thế ấy.
Người không có tánh tham, không bủn xỉn thì không bị của tiền trói buộc, tâm trí được thảnh thơi. Người không nóng giận, tất được sống cảnh hiền hòa, gia đình êm ấm; ....
Nói một cách tổng quát, về phương diện tinh thần cũng như về vật chất, người ta gieo thứ gì, thì gặt thứ ấy. Người Pháp có câu: Mỗi người là con đẻ của công nghiệp mình.
3. Những nguyên nhân suy thoái đạo đức là do không tin vào nhân quả.
Vấn đề luân lý đạo đức trong xã hội cũng đang là thực trạng mà mỗi chúng ta cần nhìn nhận. Đạo đức con người ngày càng bị tha hóa trước những lợi danh, vật chất. Trong một số gia đình truyền thống gia phong lễ giáo xưa nay là niềm tự hào của dân tộc nay đã bị đảo lộn. Thật đau lòng biết bao khi hàng ngày phải chứng kiến bao cảnh trái ý nghịch lòng, xem thường đạo đức. Trong đó cảnh con giết cha, chồng giết vợ, trò đánh thầy . . . không còn là điều xa lạ với xã hội ngày nay. Rồi lại những tệ nạn mại dâm, ma túy, trộm cướp, giết người … đang là ung nhọt đau nhức, nó làm băng hoại giá trị đạo đức con người và xã hội. Ngay cả những con người đại diện cho pháp luật, là bộ mặt cho xã hội cũng bị tha hóa bởi nạn tham ô hối lộ, khiến cho nền kinh tế trở nên chậm phát triển, bao người dân rơi vào hoàn cảnh khốn đốn. Tất cả những hiện tượng trên là dấu hiệu cho thấy sự suy thoái của những giá trị luân lý đạo đức con người.
Một khi những thỏa mãn về nhu cầu vật chất đạt đến tột đỉnh thì yếu tố đạo đức con người ngày càng suy thoái. Làm thế nào để cân bằng một xã hội vừa đầy đủ những nhu cầu vật chất, vừa không đánh mất đi giá trị nhân văn đạo đức của con người?Chỉ có giáo lý của Đạo Phật mới có thể giải quyết những vấn đề trên một cách trọn vẹn.
Yếu tố phù hợp với thời đại khoa học đã khẳng định vai trò và giá trị thiết thực của giáo lý Đạo Phật đối với xã hội. Trong đó, triết lý nhân quả không còn xa lạ gì với con người ngày nay. Tuy nhiên, để cho lý nhân quả được trở nên thiết thực và cụ thể, đòi hỏi con người phải thật sự ứng dụng vào đời sống một cách đúng đắn, hầu xây dựng một xã hội hướng thượng tốt đẹp.
Như lời nhận định của giáo sư Nguyễn Khắc Thuần: “Tính triết lý sâu sắc của thuyết nhân quả không phải ai ai trong xã hội nhận thức được, nhưng xã hội bao giờ cũng có cách ứng dụng thiết thực của xã hội. Trong quảng đại nhân dân, dấu ấn của thuyết nhân quả thể hiện rõ nhất ở những quan niệm về giáo dục đạo đức làm người”
V. ẢNH HƯỞNG CỦA GIÁO LÝ NHÂN QUẢ TRONG ĐỜI SỐNG
Mọi người dù là những tín đồ Phật giáo hay đơn thuần chỉ là những người ngoài cuộc, nhưng khi nói đến nhân quả dường như tất cả đều tin tưởng và chấp nhận. Điều đó đã được thể hiện rõ nét qua cách sống, qua hành vi cư xử của mọi người trong cuộc sống với nhau. Người ta biết lựa chọn cho mình cách sống ăn ở ngay lành. Dù tối thiểu thì đó cũng là kết quả tự nhiên âm thầm của lý nhân quả. Không một nhà trí thức, nho sĩ nào, ngay cả ngày nay từ mọi tầng lớp bình dân cho đến trí thức, không ai lại không biết qua ít nhiều về giáo lý nhân quả. Nó đã in sâu và đậm nét trong tâm khảm của mỗi con người dân tộc Việt nam.
Từ ngàn xưa cho đến nay, giáo lý nhân quả đã có những ảnh hưởng rất sâu sắc và rộng lớn trong đời sống sinh hoạt của xã hội, trong văn chương bình dân, trong thi ca văn học, trong ngôn từ giao tiếp… Nó đã dẫn dắt bao thế hệ con người biết soi sáng tâm trí mình vào lý nhân quả mà hành động sao cho tốt đẹp trong một cộng đồng xã hội. Do vậy tư tưởng triết lý nhân quả của Đạo Phật đã ảnh hưởng và tác động mạnh mẽ trên một bề rộng qua nhiều khía cạnh khác nhau trong xã hội.
1. Ảnh hưởng trong kho tàng văn học
Văn học là sự kết tinh của bao cái hay cái đẹp trong cuộc sống. Nó hướng con người ta đến một đời sống lạc quan tốt đẹp. Văn học là nơi gặp gỡ của bao thế hệ để cùng nhau thổi vào trong cuộc sống những làn hơi ấm áp nên thơ thông qua ngòi bút tuyệt tác của mình. Qua văn học, người ta có thể phản ánh được cuộc sống một cách chân thật. Triết lý nhân quả của Đạo Phật phải chăng đã hòa cùng cuộc sống, nhằm trả lời và giải quyết rốt ráo mọi vấn đề nan giải trong xã hội. Do vậy triết lý nhân quả đã ảnh hưởng sâu đậm vào nền văn học Việt Nam không chỉ trong một phạm vi nhỏ hẹp mà hết sức đa dạng và phong phú ở nhiều thể loại khác nhau. Như những câu văn câu thơ mà chúng ta sẽ gặp sau đây: “Nhân nào quả ấy”
Câu nói ấy tuy ngắn gọn nhưng ý nghĩa và nội dung mang tính giáo dục rất cao. Nói “nhân nào quả ấy” hàm chứa một lời răn đe khuyên dạy con người sống ở đời phải biết lấy cái thiện làm chất liệu để xây dựng và hoàn thiện cho mình một đời sống hướng thiện. Nếu ta gieo nhân lành ắt được quả lành, bằng ngược lại ta gieo nhân xấu, bất thiện tất phải nhận lấy kết quả bất hạnh khổ đau. Để mô tả và bộc lộ tính chất trên, trong ca dao tục ngữ lại có câu: “Gieo gió gặp bão”
Tất cả những ý chỉ ấy tuy không hoàn toàn chuyển tải nội dung của lẽ sống một cách chính xác nhất, nhưng nó đã phản ánh một khía cạnh, một đặc tính nào đó của quy luật nhân quả tác động đến cuộc sống của con người.
Hoặc là những câu:
“Trồng cây chua ăn quả chua
Trồng cây ngọt ăn quả ngọt
Trứng rồng lại nở ra rồng
Liu điu lại nở ra dòng liu điu”
Ở đây, cây chua là chỉ cho nghiệp nhân bất thiện nên phải chiêu cảm nghiệp quả cũng bất thiện (quả chua). Cây ngọt là chỉ cho nghiệp nhân lành nên thọ nhận nghiệp quả cũng lành (quả ngọt). Điều đó đã nói lên đặc tính nhân nào qủa nấy. Tuy nhiên, trong cuộc sống đời thường lắm khi ta chứng kiến bao cảnh trái ý nghịch lòng. Trước những hoàn cảnh ấy, nếu xét trên góc độ của thế gian ta sẽ vội vàng kết luận và cho rằng cuộc đời sao bất công vô lý. Nhưng tất cả mọi vấn đề đều căn cứ trên ba thời là: hiện báo – sanh báo – hậu báo mà ra.
Ca dao tục ngữ Việt Nam còn chuyên chở những nội dung triết lý sâu sắc trong cuộc sống. Có nhân quả nên có luân hồi, nhân quả luân hồi là một quy luật tất yếu trong nhân sanh và vũ trụ. Cho nên, sức thu hút của ca dao tục ngữ dân gian chính bởi sự kết tinh từ những sự kiện có thật trong cuộc sống. Từ đó nó tác động đến tâm lý, suy nghĩ của con người. Quy luật nhân quả luân hồi còn là bài học giáo dục có giá trị sâu sắc cho đời, không chỉ trong một thế hệ mà trải qua nhiều thế hệ tiếp nối. Nói theo ngôn từ của Đạo Phật thì đó là quá trình tiếp nối của kiếp trước và kiếp sau trong ba khoảng chu kỳ của thời gian là từ Quá Khứ - Hiện Tại -Vị Lai. Ngôn từ ấy đã được đúc kết qua ca dao tục ngữ:
“Anh ơi! hãy ở cho lành
Kiếp này chẳng gặp để dành kiếp kiếp sau”
Ta thật tự hào khi thấy rằng giáo lý của Đạo Phật đã thật sự ăn sâu và thấm nhuần vào tận gốc rễ đời sống sinh hoạt của xã hội thông qua những câu ca dao tục ngữ dân gian Việt nam.
Dẫu chưa hẳn xuất thân trong môi trường Phật giáo, nhưng ý tứ trong văn thơ của các tác giả đã thấm nhuần và mang đậm tư tưởng triết lý của Phật giáo. Trong đó triết lý nhân quả đã chiếm lĩnh một vị trí rất lớn. Một triết lý đề cao trách nhiệm của mỗi người về mọi hành động ngay trong đời sống hiện tại và tương lai của chính mình.
Nhưng triết lý nhân quả Đạo Phật không chủ trương “Nghiệp quyết định tất cả”, mà bằng hành động hiện tại, con người ta vẫn có thể làm thay đổi cái nghiệp bất thiện trong quá khứ.
Thấy được điều sai quấy mà ăn năn hối cải là một hành động luôn được mọi người ca ngợi và trân trọng. Bởi lẽ ở đời không ai là hoàn thiện “Nhân vô thập toàn”, nhưng biết nhận ra để khắc phục và sửa chữa vẫn là nhân tố quan trọng nhất trong cuộc sống. Nét đặc sắc trong Giáo lý của Đạo Phật không phải là rầy la hay trừng phạt mà luôn mở ra cho con người một hướng đi, một cơ hội để tự khắc phục và hoàn thiện nhân cách cho chính mình. Ảnh hưởng được tinh thần ấy, người dân Việt Nam đã đúc kết cho mình một quan niệm sống hết sức nhân từ và độ lượng qua câu nói “Đánh người chạy đi chứ không ai đánh người quay lại”. Hành động quay lại để chỉ cho những con người biết phục thiện. Hành động ấy dĩ nhiên sẽ được xã hội đón nhận và trân trọng.
Mục đích ra đời của Đạo Phật là hướng con người đến một đời sống hiền hòa lương thiện, lấy chất liệu của tình thương làm lẽ sống. Giáo lý của Đạo Phật nhằm vào một mục đích duy nhất là khuyên răn con người ta xa lìa các điều ác, thực hành các việc thiện. Giáo lý của Đạo Phật không mang tính cao siêu hay xa rời thực tế. Tính thiết thực và gần gũi của Giáo lý Đạo Phật là giúp con người nhận rõ chân tướng của những suy nghĩ, những hành động thiện hay bất thiện, từ đó có thái độ nhận thức đúng đắn về cuộc sống đang diễn ra quanh mình. Tinh thần cốt lõi của giáo lý Đạo Phật đã đựơc thâu lược qua bài kệ:
“Không làm các việc ác
Chỉ làm các việc lành
Giữ tâm ý trong sạch
Là lời chư Phật dạy”
2. Ảnh hưởng trong đời sống sinh hoạt
Đạo Phật đã chung sống với nhân dân Việt Nam qua 20 thế kỷ, một khoảng thời gian đủ để khẳng định giá trị của Đạo Phật trong lòng dân tộc. Tư tưởng của Đạo Phật đã thấm nhuần tinh thần dân tộc. Giáo lý nhân quả nghiệp báo cũng đã ảnh hưởng một cách sâu sắc trong đời sống sinh hoạt và những phong tục, tập quán của người dân Việt Nam. Nó đã được xã hội hóa thành một nếp sống tín ngưỡng hết sức sáng tỏ đối với dân tộc. Từ đó nó hướng dẫn con người có những hành động, hành vi cư xử đúng đắn trong xã hội. Nói khác hơn, xã hội hóa chính là nơi dạy cho mỗi cá nhân học cách làm người. Trong đó, xã hội hóa được thiết lập trong một môi trường mà con người đã được hấp thụ những tinh hoa trong cuộc sống.
Với phương châm “Tùy duyên bất biến, Bất biến tùy duyên”, Phật Giáo đã khéo vận dụng như là một phương tiện hữu hiệu để đưa giáo lý của Đạo Phật đến với cuộc đời. Vì vậy, Phật giáo đến với quốc gia nào thì liền có hình thái thích nghi với nền văn hóa, phong tục, tập quán của quốc gia đó. Như lời nhận xét của Hòa Thượng Thích Thanh Từ: “Phật giáo không có giáo quyền chung, không lệ thuộc Giáo Hội Trung Ương điều khiển. Cho nên, Phật giáo truyền bá đến địa phương nào, tùy sự thích nghi của dân tộc địa phương đó.”
Trải qua một khoảng thời gian hơn hai nghìn năm, Đạo Phật du nhập vào nền văn hóa Việt Nam, nên những tư tưởng triết lý của Đạo Phật mà điển hình là tư tưởng triết lý nhân quả đã có những ảnh hưởng sâu sắc to lớn trong đời sống sinh hoạt của xã hội Việt Nam, đó cũng là điều tất yếu.
VI. LỢI ÍCH DO SỰ HIỂU BIẾT VÀ ÁP DỤNG LUẬT NHÂN QUẢ
Đạo lý nhân quả không chỉ mang luân lý đạo đức trong đạo Phật mà nó còn có giá trị giáo dục đối với xã hội.
1. Tránh những mê tín dị đoan, những tin tưởng sai lầm vào thần quyền
Lý nhân quả không đồng quan điểm với cái gọi là thiên mệnh hay định mệnh. Bởi những quan niệm sai lầm ấy đã khiến cho bao con người trở nên thụ động. Ta không thể ngồi đó trông chờ một kết quả tốt lành đưa đến, lại càng không thể khoanh tay trước cái gọi là số phận an bài. Hành động như vậy chẳng khác nào ta đang hạ thấp giá trị con người giữa một thế giới bao la vũ trụ.
- chất triết lý nhân quả, một mặt vừa chỉ rõ con đường sanh tử của con người để tránh, vừa khích lệ con người hành thiện. Mặt khác, dạy con người ý thức trách nhiệm, sống không ỷ lại, không chạy trốn, không đổ lỗi, không cầu xin. Đây là tinh thần giáo dục rất lành mạnh và tích cực trong việc giáo dục một con người tốt ở cả hai mặt cá nhân và xã hội.
Đức Thế Tôn của chúng ta đã từng phê phán việc cầu xin và ước vọng, Ngài cho rằng, không lợi ích gì khi con người cứ ngồi đó van xin cầu khẩn. Đức Phật dạy: “Nếu có người làm mười ác hạnh, rồi một quần chúng đông đảo đến cầu xin, cầu khẩn, chắp tay mong rằng người ấy sẽ được sanh thiện thú, thiên giới. Sự cầu khẩn như vậy là vô ích. Vì người ấy làm mười ác hạnh sẽ bị rơi vào địa ngục. Ví như một người quăng một tảng đá vào hồ nước, rồi một số đông đảo đến cầu xin , cầu khẩn, chắp tay cầu rằng tảng đá ấy sẽ được nổi lên. Sự cầu khẩn như vậy là vô ích. Trái lại, một người từ bỏ mười ác hạnh, làm mười hạnh lành, nếu có một quần chúng đông đảo đến cầu xin, cầu khẩn, chắp tay cầu rằng người ấy sẽ bị sanh vào địa ngục, đọa xứ, thời lời cầu xin ấy cũng không được thành tựu. Người ấy vẫn được sanh lên thiện thú, thiên giới, cõi người.”
Luật nhân quả cho chúng ta thấy được thực trạng của sự vật, không có gì mơ hồ, bí hiểm. Nó cũng phủ nhận luôn cái thuyết chủ trương Vạn vật do một vị thần sinh ra và có uy quyền thưởng phạt muôn loài. Do đó, người hiểu rõ luật nhân quả sẽ không đặt sai lòng tin tưởng của mình, không cầu xin một cách vô ích, không ỷ lại thần quyền, không lo sợ hoang mang.
2. Đem lại lòng tin tưởng vào chính con người
Hơn bao giờ hết, tính triết lý nhân quả của Đạo Phật đã đặt trách nhiệm, vai trò giá trị của mỗi cá nhân lên hàng đầu. Không một tôn giáo nào có được một tinh thần cởi mở và phóng khoáng như Đạo Phật. Vì phần lớn các Tôn giáo khác đều đặt nặng tính thần quyền, ban phúc của một đấng giáo chủ tối cao của mình. Với Đạo Phật, luôn tôn trọng tính chất quan trọng của tự thân, và đặt ra vấn đề trách nhiệm của cá nhân, bởi con người vừa là chủ nhân của nghiệp và cũng vừa là kẻ thừa tự của nghiệp. Do vậy, con người phải có trách nhiệm đối với những hành động mà mình đã làm cho tự thân, cho gia đình và xã hội. Nói theo ngôn ngữ thế gian thì mình làm mình chịu, chứ không thể lôi kéo một cá nhân nào khác đứng lên gánh chịu trách nhiệm cho mình như câu mà người đời thường nói: “Đời cha ăn mặn, đời con khát nước”.
Trong giáo lý nhân quả, giá trị con người không chỉ được đề cao ở vai trò và trách nhiệm mà con người còn có khả năng làm thay đổi nghiệp cũ (chuyển nghiệp). Đây là một đặc tính hết sức nhân bản. Nó cho phép con người có được một khả năng hướng thượng. Con người biết khắc phục sửa chữa cái xấu, cái ác, để trở thành cái hay cái đẹp. Tính nhân văn trong triết lý nhân quả không phải là nhằm lý giải cái nhân cái quả khiến cho con người trở nên lo sợ hay trốn chạy, mà nó mang đến cho con người những cơ hội để tự mình khắc phục những sai lầm trong quá khứ và xây dựng cho chính mình một đời sống an vui và hạnh phúc.
Khi đã biết cuộc đời của mình do nghiệp nhân của mình tạo ra, mình là người thợ tự xây dựng đời mình, mình là kẻ sáng tạo, mà không tin tưởng ở mình thì còn tin tưởng ở ai nữa? Lòng tự tin ấy là một sức mạnh vô cùng qúy báu, làm cho con người dám hoạt động, dám hy sinh hăng hái làm điều tốt. Vì những hành động tốt đẹp ấy, họ biết sẽ là những cái nhân quý báu, đem lại những kết quả đẹp đẽ.
3. Giúp con người không chán nản, không trách móc
Người hay chán nản, hay trách móc là vì đã có thói quen ỷ lại ở kẻ khác, là vì hướng ngoại. Nhưng khi đã biết mình là động lực chính, là nguyên nhân chính của mọi sự thất bại hay thành công thì còn chán nản trách móc ai nữa? Không gieo nhân xấu để khỏi phải gặt quả xấu, tránh tạo giống ác để khỏi mang cái ác.
4. Xây dựng truyền thống đạo đức dân tộc
Trên tinh thần đoàn kết, nhân quả của Đạo Phật xây dựng cho dân tộc Việt Nam một truyền thống rất đẹp đó là tính chan hòa yêu thương, mở rộng cõi lòng. Nói khác hơn, là truyền thống tương thân tương ái. Một truyền thống thật gần gũi và gắn liền với con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam - một dân tộc xưa nay vốn hiền hòa, thân thiện và dễ mến. Đặc tính yêu thương, mở rộng cõi lòng được thể hiện rõ nhất qua những việc làm nhân nghĩa, giúp đỡ lẫn nhau trong lúc khó khăn hoạn nạn. Nêu cao tinh thần tương thân tương ái với phương châm “Nhường cơm xẻ áo”, “Lá lành đùm lá rách”, “Một miếng khi đói bằng một gói khi no”. Những việc làm ấy phần nào phản ánh được phẩm chất cao đẹp của con người Việt Nam.
Chúng ta không còn mơ hồ gì đối với giáo lý nhân quả. Một triết lý xây dựng cho con người nhận biết trách nhiệm cá nhân để tự hoàn thiện cho mình một phong cách sống lành mạnh và có ý nghĩa nhất. Đặc biệt xây dựng mối quan hệ tương quan mật thiết giữa con người với con người, giữa con người với xã hội, với đất nước và với dân tộc.
Trên phương diện luân lý đạo đức, thuyết nhân quả chính là nền tảng xây dựng những đặc tính quý báu, mang đậm truyền thống đạo đức dân tộc Việt Nam. Con người có trách nhiệm và quyền tự do để định đoạt đời mình bằng nếp sống hiện tại. Qua đó, mỗi cá nhân trong xã hội cùng nhau góp phần xây dựng cho cuộc sống ngày càng an vui và hạnh phúc.
C. KẾT LUẬN
Một khi tin hiểu sâu sắc về luật nhân quả, con người sẽ trở nên rộng lượng bao dung, ôn hòa, dễ mến. Bấy giờ con người sẵn sàng động viên chia sẽ cho nhau trong mọi hoàn cảnh sống. Họ hiểu rằng, đem đến cho người những điều bất hạnh thì tự thân sẽ đón nhận những nghiệp quả khổ đau. Bằng ngược lại, mang đến cho người những điều an vui hạnh phúc thì tự thân sẽ được nhiều điều lợi lạc. Như trong Nho gia có câu “Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân”, cũng hàm chứa ý nghĩa trên. Cái điều mà mình không muốn thì cũng đừng mang đến cho người khác.
Giáo lý nhân quả dạy cho ta biết chế ngự mọi bất hạnh, ngăn ngừa ác tâm sanh khởi, xua tan cái nghiệp quả oan oan tương báo, đem lại niềm an lạc cho tự thân, cho tha nhân và cho xã hội. Trong gia đình cho đến bên ngoài cộng đồng xã hội, nếu ai ai cũng tin hiểu sâu sắc về nhân quả, ắt con người trong xã hội sẽ trở nên thánh thiện biết chừng nào. Một xã hội mà con người luôn lấy những điều nhân nghĩa, chân thật đối xử với nhau đúng mực trong tinh thần đồng bào, đồng loại thì xã hội ấy lý tưởng biết bao. Sống vì hạnh phúc của tha nhân và tập thể, chính là nếp sống tối thượng nhất của người học Phật.
Giáo dục trong Phật Giáo nói chung và giáo dục đạo đức con người dưới triết lý nhân quả nói riêng, đều mang một ý nghĩa là chỉ ra cho con người thấy được vai trò, trách nhiệm và giá trị quan trọng của mỗi con người đối với tự thân, tha nhân và xã hội.
Thấy được giá trị của luật nhân quả, là người học Phật, mỗi chúng ta cần áp dụng nó vào đời sống một cách thiết thực và có ý nghĩa nhất. Trong mọi cử chỉ nói năng hay hành động điều phát xuất từ những suy nghĩ thiện. Điều đó cũng có nghĩa là trước khi làm một việc gì, chúng ta phải nghĩ đến hậu quả của nó sẽ mang lại cho người khác hạnh phúc hay khổ đau. Nếu hạnh phúc ta nên phát huy, nếu khổ đau ta nên đoạn tận. Hành động phát huy và đoạn tận cũng chính là gạn lọc cho tâm ý luôn được thanh tịnh và trong sáng dưới sự soi sáng của giáo lý nhân quả.
Đạo lý nhân quả nâng cao ý thức trách nhiệm nơi mỗi cá nhân, dạy con người biết sống thiện, sống hữu ích, tích cực vươn lên trong cuộc sống. Cho nên, nếu hiểu và tin nhân quả thì con người sẽ tự giác chấp hành nghiêm chỉnh những chuẩn mực đạo đức trong xã hội, thực hiện tốt các nội quy mà tập thể đặt ra, hoàn thành tốt nghĩa vụ, trách nhiệm của mình, sống một đời sống đạo đức. Nhờ vậy mà trật tự xã hội được giữ vững, các giá trị đạo đức, văn hóa truyền thống được giữ gìn và phát huy, đời sống của xã hội ngày được nâng cao, gia đình được hạnh phúc, ấm no.
Từ xa xưa, ông cha ta đã ý thức được giá trị cao quý của con người không phải ở địa vị và danh vọng mà chỉ có nơi những con người đạo đức. Thời gian qua đi, mọi sự vật đều đổi thay, địa vị, tiền tài, danh vọng kia rồi cũng tan biến, duy chỉ có danh thơm tiếng tốt của những con người đức hạnh sẽ còn lưu mãi với thời gian. Như trong Kinh Pháp Cú, đức Phật đã dạy:
“Hương của các loài hoa
Không thể bay ngược gió
Chỉ hương người đức hạnh
Ngược gió bay muôn phương.”
Dù con người có thành công đến đâu đi nữa thì vẫn không sao tránh khỏi những tác động âm thầm từ tính chất nhân quả. Bởi lẽ, chúng ta phải hiểu rằng, tính nhân quả không phải là một sản phẩm do Đạo Phật tạo ra, mà nó là một quy luật tất yếu trong vũ trụ. Đức Phật chỉ là người khám phá và chỉ ra cho con người nhận biết. Nó cũng như bản chất Phật tánh của mỗi con người ai cũng có, nhưng do vô minh vọng tưởng ta không nhận ra được điều đó mà thôi.
BÀI 2
A. DẪN NHẬP
Đức Thế Tôn sau 49 năm thuyết pháp đã để lại cho đời một gia tài pháp bảo vô giá. Đây là niềm tự hào, hảnh diện và hạnh phúc nhất của người con Phật nói riêng và cho cả thế giới nói chung. Trong kho tàng giáo lý này, có một pháp bảo rực rỡ sáng ngời hơn cả mặt trời, mặt trăng và các vì tinh tú. Vì ánh sánh pháp bảo này phá tan mọi mê lầm của nhân loại, đem lại an lạc, giác ngộ cho con người. Pháp bảo này có tên là Nhân Quả. Bởi vì giáo lý nhân quả đã giải thích cặn kẽ, tường tận mọi hiện tượng của vũ trụ nhân sinh. Định luật nhân quả là một định luật hiển nhiên, có từ vô thỉ, không do một đấng sáng thế hay thần linh nào tạo ra nó. Nhân quả là vị quan tòa sáng suốt và bình đẳng nhất.
Những người lưu manh xảo quyệt có thể lẫn tránh dư luận, qua mặt sự thưởng phạt của pháp luật thế gian, nhưng họ chẳng thể tránh khỏi luật nhân quả. Các Tôn giáo trên thế giới cũng nói nhiều về nhân quả, nhưng nói không được triệt để, rốt ráo, có khi lại mang đậm tính chất thần quyền, mê tín, nên không thể nào giải tỏa những thắc mắc, nghi ngờ của con người. Duy chỉ có giáo lý Nhân Quả của Phật giáo vừa gần gũi mà lại thâm sâu vi diệu, mới phơi bày rõ ràng chân tướng của vũ trụ nhân sinh. Nhất là trong xã hội hiện đại này, khi mà tri thức và khoa học ngày càng được nâng cao thì giáo lý nhân quả càng thể hiện tính chính xác, công bằng tuyệt đối. Chính lẽ này mà hôm nay chúng tôi xin trân trọng giới thiệu chủ đề Nhân Quả đến với toàn thể đại chúng.
B. NỘI DUNG
I. ÐỊNH NGHĨA
"Nhân" là nguyên nhân, là cái mầm. "Quả" là kết quả, là trái. Nhân và Quả là hai trạng thái tiếp nối nhau mà có. Nếu không có Nhân thì không có Quả, nếu không có Quả thì không có Nhân. Nhân có thể hiểu là năng lực tác động và quả là sự hình thành từ những năng lực tác động đó.
Nhân Quả là một chuỗi dài các mắc xích nối tiếp nhau không cùng tận, mà ta gọi là tương quan Duyên sinh. Cho nên, một kết quả thành tựu không phải do một nguyên nhân sanh ra, mà do nhiều nguyên nhân kết hợp lại thành. Nguyên nhân chính (trực tiếp) gọi là Nhân. Nguyên nhân phụ (gián tiếp) gọi là Duyên. Vì thế mà Nhân quả nói đủ là Nhân – Duyên - Quả.
Trong luật nhân quả có một yếu tố quan trọng đó là Nghiệp. Vì có tạo nghiệp mới có nhân quả. Nghiệp là hành động tạo tác có tác ý, mà chúng sinh phần nhiều sống theo vọng thức, phân biệt, chấp trước nên mọi hành động đều có tạo nghiệp, vì vậy phải tuân theo sự chi phối của Nhân quả.
II. QUAN NIỆM VỀ NHÂN QUẢ CỦA CÁC HỌC THUYẾT
1. Phát biểu của một số tôn giáo- trường phái triết học
- Túc Mệnh Luận: Chủ trương con người và tất cả mọi hiện tượng trong thế giới này đều do nghiệp quá khứ định sẵn, do đó không thể thay đổi được.
- Thần Ý Luận: Chủ trương con người, các loài hữu tình và thế giới là tác phẩm của Đấng toàn năng sáng thế.
- Ngẫu Nhiên Luận: Chủ trương con người và thế giới hiện hữu là do ngẫu nhiên, chứ không do bất cứ cái gì tạo ra.
2. Quan niệm về nhân quả trong Phật giáo
Theo quan điểm Phật giáo thì vấn đề tai họa hay sung sướng, khổ đau hay bất hạnh, giàu có hay nghèo khổ đều do nhân thiện ác mà chúng ta gieo trồng từ nhiều đời sống về trước, đời này hay đời sau phải chịu quả báo.
Phật giáo còn quan niệm, tiến trình nhân và quả không do một nhân vật toàn năng nào điều khiển và định đoạt mà do hành động qua thân, khẩu và ý của chúng ta hằng ngày. Chỉ cần sáng suốt khi tạo nhân, chịu khó chăm sóc tốt cho nhân tăng trưởng, thì quả chín ngon ngọt sẽ đến tay chúng ta một cách dễ dàng. Dựa vào tiến trình NHÂN – DUYÊN - QUẢ, nếu nhân hay duyên thay đổi thì quả sẽ theo đó mà thay đổi.
III. ĐẶC TÍNH CỦA NHÂN QUẢ
Nhân quả là vấn đề rất phức tạp, cho dù gần gũi trong nhận thức của con người nhưng để tìm hiểu rõ ràng về chúng không dễ dàng chút nào. Muốn hiểu rõ Nhân Quả, lần lượt chúng ta sẽ tìm hiểu về từng đặc tính của chúng.
Sự hình thành kết quả hẳn còn tùy thuộc vào các duyên. Do đó, trên cơ bản có thể chia nhân quả thành những đặc tính sau:
1. Nhân thế nào quả thì quả thế nấy (Nhân quả đẳng lưu)
Như chúng ta muốn có quả cam thì phải gieo hạt cam, hạt cam là nhân, khi hạt cam gieo xuống đất mọc thành cây và cho ra trái cam, đó là quả. Muốn có trái xoài thì phải gieo hạt xoài. Không thể gieo hạt cam mà cho ra trái xoài được. Cũng vậy, người học vẽ thì biết vẽ, người học đàn thì biết đàn, chứ không thể học vẽ mà biết đàn và ngược lại. Như vậy, nhân quả có cùng một đẳng loại, không có sự lẫn lộn đẳng loại. Theo Giáo lý nhà Phật cũng vậy, hễ tu học đúng pháp, đúng chân lý thì đạt mục đích cứu cánh giải thoát chứ không có chuyện trầm luân sa đọa. Những kẻ trầm luân sa đọa chỉ là những kẻ tạo quá nhiều ác nghiệp mà thôi.
Nhân quả tuy cùng đẳng loại, nhưng do các duyên trung gian can thiệp vào mạnh hay yếu, thuận hay nghịch mà quả có thể hình thành sớm, muộn, hay có thể không hình thành; và quả có thể cùng loại với nhân nhưng vẫn khác với nhân. Ví dụ: một nắm muối nếu bỏ vào tô canh thì mặn, nhưng nếu bỏ vào trong hồ nước mênh mông thì không mặn. Như vậy, nói nhân nào quả ấy, là cách nói hàm chứa một lời răn đe, khuyên dạy con người sống ở đời phải biết lấy cái thiện để làm chất liệu, mà xây dựng hoàn thiện cho mình đời sống lương thiện, nếu ta gieo nhân lành chắc chắn được quả lành, và ngược lại, gieo nhân ác chắc chắn gặt quả ác. Do đó, người đời hay nói những câu: “Ở hiền gặp lành”, “Ở ác gặp dữ”, “Gieo gió gặt bão” hay “Nhân nào quả ấy”.
Nhân nào quả đó, không thể thay đổi được, nếu muốn thay đổi thì chúng ta phải thay đổi cái nhân, chứ không thể thay đổi được cái quả. Nhân quả trong đạo Phật thắp sáng cho mọi người một niềm tin rằng: làm thiện được quả báo tốt đẹp, làm ác gặp quả báo xấu; không bao giờ có người làm ác mà có kết quả tốt đẹp được, chỉ có điều là nó đến sớm hay muộn mà thôi. Cho nên Tổ Quy Sơn có dạy:
“Giả sử bách thiên kiếp
Sở tác nghiệp bất vong
Nhân duyên hội ngộ thời
Quả báo hoàn tự thọ”.
Nghĩa là:
“Dẫu cho trăm ngàn kiếp
Quả báo không bao giờ mất
Khi nào nhân duyên đầy đủ
Quả báo đến tự mình lãnh thọ”.
2. Một nhân không thể đưa đến quả
Trong mối tương quan nhân quả, một nhân không thể đưa đến một quả hay một quả không thể chỉ có một nhân. Nói rằng hạt lúa sanh ra cây lúa, là nói tắt thôi chứ thật ra hạt lúa không thể sanh ra cây lúa, vì nó còn phải có các duyên tác động vào: Trên thực tế người nông dân gieo hạt xuống đất cần phải có những yếu tố như: đất, phân, giống, ánh sáng, sức lao động của con người, thì hạt lúa mới nảy mầm thành cây lúa và cho ra những chuỗi hạt lúa tốt tươi. Nếu thiếu một trong những yếu tố trên thì quả ấy không thành. Cho nên từ nhân đi đến quả có các yếu tố duyên xen vào nên quả có thể khác với nhân dù cùng loại. Tùy thuộc vào sự can thiệp mạnh hay yếu của các duyên trung gian, thuận chiều hay nghịch chiều phát triển của nhân mà quả có thể hình thành sớm, muộn hoặc không hình thành. Bởi vì, vạn vật trong vũ trụ này đều là tổ hợp của nhân duyên. Do đó, một nhân không thể sanh ra quả mỹ mãn.
Quá trình tu hành cũng thế, nếu không chú ý đến nghịch duyên, hành giả sẽ không đạt mục đích giải thoát mà có thể bị nghịch duyên ấy kéo lui vậy. Nhưng nếu ta biết mượn nghịch cảnh để tu hành, rèn luyện ý chí, nghị lực, phá trừ bản ngã thì nghịch duyên chính là người bạn tốt nhất giúp hành giả mau đạt được giác ngộ, giải thoát. Cho nên ông cha ta có câu “lửa thử vàng, gian nan thử sức”, hay “gian nan rèn luyện mới thành công” là vậy. Hình ảnh thái tử Tất Đạt Đa cầu đạo là một điển hình. Những nghịch duyên trùng trùng trên đường tu lại giúp Ngài càng thêm kiên định, mới phát huy được sức mạnh phi thường và mầu nhiệm của chân tâm.
3. Trong nhân có quả, trong quả có nhân
Chính trong nhân hiện tại đã có hàm chứa cái quả vị lai; cũng chính trong cái quả hiện tại, đã có hình bóng của nhân quá khứ. Nhân và qủa tiếp nối nhau, đắp đổi nhau như những vòng móc xích. Như đám mây là nhân, mưa là quả, và hơi nước bốc lên là nhân, kết tụ lại là quả. Vậy cái nhân hiện tại có hàm chứa cái quả vị lai, và cũng chính cái quả hiện tại đã hàm chứa cái nhân của quá khứ.
Như ở con người, khi chúng ta thành tâm, thành ý tu tạo nhân bố thí, cúng dường, thì chắc chắn rằng trong tương lai ta sẽ được quả giàu có. Và khi nhìn vào những người đang thọ hưởng cuộc sống giàu sang, thì ta biết rằng trong quá khứ họ đã từng tạo nhân bố thí… Hiểu rõ nguyên lý này nên trong hiện đời chúng ta phải dốc lòng tu tập, tích chứa phước đức, để hiện tại và sau này mình có được đời sống an lành, hạnh phúc cho đến ngày ra khỏi luân hồi sanh tử khổ đau.
Nhân quả - nghiệp báo là sự hiện hữu của các mối tương quan thiện - ác, chánh - tà v.v..., nó thuộc pháp hữu vi sanh diệt vốn là hiện thân của ý niệm phân biệt. Do đó, với tâm thanh tịnh và xả ly thì vấn đề nhân quả - nghiệp báo không còn được bàn đến.
IV. PHÂN LOẠI NHÂN QUẢ
Trên đời này mọi sự vật, sự việc đều có tên gọi riêng. Như tên gọi trái ổi, trái mít, con gà, con vịt, cu tèo, con tí… Nhân Quả cũng vậy, có rất nhiều cách phân loại nhân quả, được các bậc Tôn đức và học giả Phật học đưa ra. Tuy nhiên, nhân quả là một tiến trình liên tiếp nên chúng chủ yếu diễn ra theo thời gian là dễ nhận biết nhất. Tạm thời chia nhân quả thành các loại sau:
1. Phân loại theo thời gian
a. Nhân quả đồng thời
Là loại nhân quả mà Thời gian từ nhân đến quả trải qua rất nhanh, có thể xảy ra ngay lập tức hay một thời gian rất ngắn sau đó, còn gọi là nhân quả tức thời. Thời gian xảy ra đó tạm chia thành ba mức độ:
Mức độ cạn: Những vấn đề bình thường như ăn thì no, uống nước thì hết khát, tức giận thì buồn phiền…
Mức độ vừa: Thời gian diễn ra rất nhanh tạo thành một chuỗi liên kết chặt chẽ. Ví dụ: tai nghe tiếng, trong đó âm thanh là nhân, tác động vào tai là quả. Tác động là nhân, đưa đến phân biệt là quả. Phân biệt là nhân, cho ra cảm xúc vui, buồn thương ghét… là quả…
Mức độ sâu: Khi hành động (thiện hay ác) với tác ý rất mãnh liệt, đặc biệt đối tượng là bậc Thánh sẽ cho quả báo ngay lập tức. Như câu chuyện Thiên nữ Cốm Rang với lòng phát tâm trong sạch sau khi cúng dường cốm rang cho Trưởng lão Ca Diếp, nàng bị rắn cắn chết và ngay sau đó nàng thọ sanh thành Thiên nữ tại cung trời Đao Lợi. Hoặc những người chuyên tu tập Thập Thiện Nghiệp một cách rốt ráo, sau khi chết liền sanh lên cõi Trời.
Với loài thực vật thì có loài hoa sen đã nói lên tính chất của nhân quả đồng thời. Hoa nở ra thì đã có gương sen và có hột sẵn rồi. Điều này nói lên một triết lý sống; nhân quả không bao giờ sai khác. Nhân quả như hình với bóng, hình thế nào, thì bóng như thế đó, hình ngay thì bóng thẳng, hình vạy thì bóng cong.
b. Nhân quả dị thời
Là loại nhân quả từ lúc tạo nhân để đi đến kết quả phải chờ một khoảng thời gian. Khoảng thời gian này được chia thành ba giai đoạn:
Hiện báo: Tạo nhân trong đời này đưa đến quả báo ngay trong đời này. Ví dụ: tuổi nhỏ lo học hành chăm chỉ, lớn lên thành người có tri thức…
Sinh báo: Tạo nhân trong đời này nhưng đến đời sau mới thọ quả báo. Loại nhân quả này có thời gian xác định rõ ràng: ngay kiếp kế tiếp. Kinh Địa Tạng dạy rằng, ai hay trêu chọc người, đời sau sẽ thác sinh vào các loài vượn khỉ. Kinh Lương Hoàng Sám viết rất nhiều chuyện về quả báo của các loài ngạ quỷ mà Ngài Mục Kiền Liên đã thấy rồi thuật lại với Đức Phật.
Hậu báo: Gây tạo nhân trong đời này nhưng đến những đời sau mới thọ quả báo. Loại nhân quả này không thể xác định được thời gian, chỉ khi nào hội đủ duyên, quả báo mới hình thành. Như chuyện của Ngài Ngộ Đạt Quốc Sư là một điển hình…Trong Kinh Pháp Cú có viết câu chuyện: Một nhóm Tỳ kheo trên đường về đảnh lễ Đức Phật đã bị nhốt trong hang đá bảy ngày. Nhân đây, Đức Phật đã kể lại tiền thân của các vị này trong đời quá khứ lâu xa về trước, các Tỳ Kheo đó đã vô tình nhốt một con kỳ đà bảy ngày trong hang tối.
c. Nhân quả biến dị
Biến là thay đổi hình dạng, dị là khác. Nghĩa là gieo nhân thế này, mà kết quả thì không giống, không tương đồng với nhân đã tạo. Lý do là vì có tác động của duyên trong quá trình hình thành nên quả. Ví dụ: ta trồng xoài, sau đó ghép cây bình bát vào cây xoài, trải qua thời gian sau có trái, nhưng trái không phải là nguyên hình dáng của xoài hay của trái bình bát. Trái này có hình thù nửa giống trái xoài, nửa giống trái bình bát.
Cũng vậy, như có người tạo ác nghiệp nặng, nhưng bị quả báo rất nhẹ, như trường hợp của ngài Vô Não tạo nghiệp là nhân giết chết 99 người, nhưng sau xuất gia tu đắc quả A La Hán, sau này chỉ bị quả báo nhẹ trong hiện tại là bị một cục đất, một cây gậy, một viên sỏi quăng trúng Ngài bị lỗ đầu, chảy máu, ngoại y bị rách. Đức Phật cho biết, đáng lẽ Ngài Vô Não phải bị đọa trong địa ngục dầu sôi nhiều ngàn năm, nhưng giờ chỉ trả quả báo nhẹ hơn so với nhân đã tạo. Vậy đạo lý nằm ở đâu? Đây chính là do duyên. Duyên này chính là do yếu tố tâm lý và tuệ giác can thiệp mạnh vào quá trình hình thành của nghiệp quả, nên nghiệp quả đến rất nhẹ. Điều này trong kinh Tăng Chi I, Phẩm Hạt Muối, Thế Tôn dạy rằng: “Như một nắm muối thả vào một tô nước thì mặn, nhưng nếu thả vào hồ nước thì ảnh hưởng được xem như không có. Cũng thế, việc ác xảy đến với người không tu tập cả thân và tâm thì quả báo đến rất nặng. Cùng việc ác ấy, nếu xảy đến với người có tu tập Giới, Ðịnh, Tuệ, có từ tâm vô lượng thì quả báo sẽ không đáng kể”.
Hay câu chuyện trong kinh Tăng Nhất A Hàm, quyển 3 từ trang 182): “Thời đức Phật có vua A-Xà-Thế nghe theo lời xúi dục của Đề Bà Đạt Đa, đã giết cha để chiếm ngôi vương. Tội giết cha quả báo là đọa địa ngục A-tỳ, nhưng sau khi tỉnh ngộ ông quay đầu hướng về Tam Bảo, Quy Y với đức Phật. Đức Phật bảo vua:
- Trên đời có hai hạng người khi qua đời được sinh cõi Trời. Một là người không tạo gốc tội mà tu thiện, hai là người tạo gốc tội mà sám hối việc đã làm, rồi Ngài liền nói kệ:
Người làm hạnh rất ác,
Hối lỗi chuyển sang nhẹ,
Luôn hối không lười nghỉ,
Gốc tội sẽ nhổ sạch.
Từ khi được quy y với Phật, được nghe pháp ông đã tỉnh ngộ, sám hối lỗi lầm và là người Phật tử tín tâm nhất, ủng hộ Đạo Pháp nhiều nhất. Về sau nhân một dịp khác, đức Phật đã thọ ký cho Vua A Xà Thế sau khi chết sẽ đọa vào một địa ngục nhẹ hơn địa ngục A Tỳ mà đáng lẽ ông ta phải bị đọa đến. Đó cũng là kết quả của sám hối và làm biết bao nhiêu Phật sự trong suốt cuộc đời Vua A Xà Thế từ lúc đó cho tới khi chết. Sau cùng, với sự tỉnh ngộ ấy của vua, đức Phật bảo đại chúng đệ tử: “- Nếu Vua A Xà Thế không giết cha thì vua đã chứng được Sơ quả của bậc Sa Môn. Tuy vậy, ngày nay cũng được hạnh phúc lớn, được lòng tin vô căn.”
Như vậy, người trước gây nghiệp bất thiện mà sau đó biết tu Giới Định Tuệ, thì quả báo được giảm đi. Như vậy, sự tu tập nhất định chuyển hóa được phần nào nghiệp nhân xấu ác trở thành nghiệp tốt, chuyển tâm ác thành tâm thiện; còn ngược lại, người gây nhân ác mà không biết chuyển hóa tâm ác thành tâm thiện, thì nhất định tạo nhân nào hưởng quả ấy. Cho nên, tiến trình “dị thục” là tiến trình tất yếu cho sự tương tục của nhân quả, mà không có một cái gì có thể thay thế được cho chuỗi nhân quả nếu không có sự tác động theo hướng tích cực của con người.
d. Nhân quả dị loại (dị loại nhi thục)
Là giữa nhân và quả không khớp nhau, nhân thế này mà quả thế khác. Đây là trường hợp nhân bị các duyên cực mạnh chi phối. Như trường hợp làm mười ác nghiệp mà đời sau được sanh thiên, làm mười thiện nghiệp mà đời sau lại đọa địa ngục, tại sao vậy? Trong Kinh “Ðại Nghiệp Phân Biệt” Trung Bộ III, Đức Phật cho biết đó là do có sự can thiệp của "cận tử nghiệp", tức là lúc gần chết người đó có chánh kiến hay tà kiến. Nếu có chánh kiến thì được siêu thăng, có tà kiến sẽ bị đọa lạc.
Như vậy nhân quả biến dị và nhân quả dị loại thuộc về bất định nghiệp, có nghĩa là nhân và quả không tương xứng nhau, bởi nó bị các duyên chi phối nên quả báo thay đổi, từ dạng này sang dạng khác, từ nặng thành nhẹ, do nghiệp quả bất định. Cho nên, khi tìm hiểu sâu sắc về lý nhân quả, chúng ta mới thấy được nhân quả là một hệ thống giáo lý giải thích trọn vẹn về thân phận con người. Như vậy, kiếp sống của con người không chỉ là gieo nhân gì thì gặp quả nấy, mà kết quả của nó là những sai số bất tư nghì trong tiến trình chuyển biến từ nhân đến quả. Cho nên, sau khi con người gây nhân rồi có thể hưởng quả báo nhẹ hơn hoặc nặng hơn, nó tùy vào sự chuyển biến có sự tương tác giữa nhân và quả. Có nghĩa là, ngoài nhân chính ra, nó còn có các duyên phụ tác động vào làm cho nhân quả thay đổi. Chỉ có sự thay đổi chứ không mất đi tính chất của nó, và chỉ thay đổi về hình thái mà thôi.
Nếu không có sự tương tác thay đổi thì tất cả chúng sanh không thể tu tập chuyển nghiệp để thành Phật được. Bởi tạo một trả một thì luân hồi vẫn mãi luân hồi để oan oan tương báo lẫn nhau. Chính nhờ tính dị loại của nhân quả, chúng ta mới lý giải được tất cả, nhờ tính dị loại mà chúng ta mới có cơ hội thay đổi đời sống theo hướng tích cực, cho đến tu tập thành tựu quả vị Toàn giác.
2. Nhân quả theo vật lý và tâm lý
Sự biểu hiện khác nhau của nhân quả trên cùng một con người được biểu hiện ở hai mặt Vật lý và Tâm lý. Nhân quả biểu hiện ở mặt vật lý gọi là nhân quả ngoại giới, nhân quả biểu hiện ở mặt tâm lý gọi là nhân quả nội tâm.
Ví dụ như trường hợp một người tu hành chân chính bị vu oan mà phải vào tù. Xác thân của vị ấy bị cầm tù (biểu hiện vật lý) còn tâm thì không. Nhờ công phu tu tập, vị ấy có khả năng làm chủ tâm lý mình và không cảm thấy tù túng, khổ đau (biểu hiện tâm lý). Hoặc như một người có thể sinh ra có thân tướng xấu xí, khó nhìn (vật lý), nhưng lại có trí thông minh và có tâm tu tập tốt (tâm lý). Và ngược lại, có người được sinh ra, được phước báo cả hai mặt thân và tâm. Có người lại sinh ra với quả báo xấu ở cả hai mặt thân, tâm...
V. NHẬN ĐỊNH VỀ GIÁ TRỊ THIẾT THỰC CỦA NHÂN QUẢ
Qua sự trình bày ở trên chúng ta thấy rằng luật nhân quả là định luật phổ quát đã chi phối và tác động đến mọi sự vật hiện tượng. Giáo lý nhân quả chú trọng đến vấn đề thiện ác, tức là vấn đề luân lý đạo đức của con người nói chung và của hàng Phật tử nói riêng. Trước hết, giáo lý nhân quả dạy con người thức tỉnh trong các hành động tạo tác của mình để xa lánh các việc ác và nỗ lực làm các việc lành nhằm đem lại sự an vui, thanh bình cho cuộc sống, như trong kinh Pháp cú số 117 và 118, đức Phật dạy:
“Nếu người làm điều ác
Chớ tiếp tục làm thêm
Chớ ước muốn điều ác
Chứa ác tất chịu khổ”
“Nếu người làm điều thiện
Nên tiếp tục làm thêm
Hãy ước muốn điều thiện
Chứa thiện, được an lạc.”
Đức Phật dạy rằng: “Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp” (Tăng Chi II, HT Thích Minh Châu, Viện Phật học Vạn Hạnh, 1982, tr.101). Do đó, không thể quy ước giáo lý nhân quả - tức luân lý đạo đức Phật giáo theo khuôn mẫu ước lệ như luật pháp được ban hành trong xã hội. Chẳng hạn, một người phạm tội, luật pháp sẽ trừng phạt y khi hành vi phạm tội được xác định. Nghĩa là y đã thực hiện điều tội lỗi. Trong khi, với đạo đức và luân lý, anh ta sẽ có tội ngay khi những ý niệm tội lỗi (xấu ác) phát sinh trong tâm của y, mặc dù đó chỉ là ý niệm chứ chưa phải là hành vi. Do đó, trách nhiệm cá nhân theo giáo lý nhân quả, ở đây, là trách nhiệm cao nhất đối với thái độ tâm lý đạo đức của mỗi con người, mà không phải là trách nhiệm theo quy ước luật pháp trong xã hội.
Trong một số trường hợp, những người khôn ngoan có thể chạy trốn pháp luật, nhưng với luân lý đạo đức, họ không thể chạy trốn lương tâm của chính mình. Vì thế, nếu đứng trên phương diện giáo dục, giáo lý nhân quả thực là một phương pháp giáo dục vô cùng lành mạnh và tích cực. Vì ngay từ đầu, tinh thần nhân quả đã chú trọng con người, đưa con người về với chính mình, con người phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về những tư duy và hành động của chính họ. Thiên đường hay địa ngục, hạnh phúc hay khổ đau là do mình tự tạo cho mình, không có ai làm cho ta thanh tịnh, không có ai làm cho ta ô nhiễm, mà ô nhiễm hay thanh tịnh là chính ta quyết định. Ở đây không hề có một sự trừng phạt hay ban thưởng nào, cũng không hề có một đấng Thần linh hay Thượng đế nào ban phước giáng họa cho chúng ta cả. Kinh Pháp Cú 165 Đức Phật dạy:
“Tự mình làm điều ác
Tự mình làm ô nhiễm
Tự mình ác không làm
Tự mình làm thanh tịnh
Tịnh không tịnh tự mình
Không ai thanh tịnh ai”.
Bài Pháp Cú này đức Phật dạy dựa trên đạo lý nhân quả, dạy con người thức tỉnh trong các hành động tạo tác của mình để xa lánh các việc ác và nỗ lực làm các việc lành nhằm đem lại sự an vui, hạnh phúc cho cuộc sống. Một nền luân lý đạo đức như thế, nhân bản và tích cực như thế, trí tuệ và đầy tình người như thế, nếu được áp dụng vào mỗi con người, gia đình, học đường và xã hội, ắt hẳn sẽ đưa đến một cuộc sống an lạc, hạnh phúc.
Nhân quả có vị trí rất quan trọng trong việc giải thích sự khác biệt về nghiệp quả ở mỗi con người, và sự thiết lập nên một nền tảng đạo đức luân lý Phật giáo rất nhân bản và tích cực. Nhân quả theo Phật giáo không phải là định mệnh, cũng không mang tính chất tiền định cố hữu. Bởi lẽ, sự hiện hữu của con người không đơn giản chỉ tùy thuộc vào các nhân đã gieo trong đời sống quá khứ, mà nó còn tùy thuộc ngay nơi các hành động (nghiệp mới) tạo tác trong hiện tại. Điều này cũng khai phóng cho con người một lối đi năng động, tích cực để vượt qua mọi trở ngại của nghiệp quả, thậm chí có thể chấm dứt dòng sinh tử khổ đau ngay tại cuộc đời này.
Theo lời Đức Phật dạy, tất cả nghiệp quả (của vô lượng kiếp quá khứ) đã tập trung vào thân năm uẩn này rồi, vấn đề còn lại là hành vi tạo tác (xúc) giữa thân căn và thế giới, nói cụ thể là những nghiệp mới được tạo tác thông qua sự giao tiếp giữa 6 căn, 6 trần để ý thức (hay 6 thức) cảm thọ vui, buồn, khổ, lạc hoặc không khổ, không lạc mà thôi. Từ đó, lối đi của giải thoát chân thực, thực sự không phải là nghiệp quả của năm uẩn, mà chính là hành vi tạo tác của năm uẩn. Cho đến khi nào chúng ta ngộ được rằng năm uẩn là vô ngã, chúng không có tự tánh và không còn tham ái và chấp thủ năm uẩn là ta, là của ta, là tự ngã của ta; ngay lúc đó, nhân quả - nghiệp báo sẽ không còn hiện hữu.
Trong kinh điển, có nói về nhân quả xuất thế gian, nhưng thực ra, nếu ngay tại thế gian này mà phiền não, lậu hoặc đã được đoạn tận thì xuất thế chính là tại thế, cũng như hoa sen đã vươn lên khỏi mặt nước và nở rộ giữa hư không vô tận.
VI. ẢNH HƯỞNG NHÂN QUẢ TRONG ĐỜI SỐNG
Chúng ta thường nghe nói là “ai làm phước nấy hưởng, ai gây tội nấy chịu” vậy thì tại sao có những trường hợp là một người làm mà nhiều người chịu lây. Ví dụ, như một người làm quan thì cả dòng họ đều được hưởng bổng lộc mà một người làm tội thì phải bị “tru di tam tộc”. Như thế liệu có mâu thuẩn chăng?
Nếu chúng ta căn cứ theo giáo lý nhà Phật để giải thích thì đây là có liên quan đến sự “cộng nghiệp” và “biệt nghiệp”. Biệt nghiệp ảnh hưởng cộng nghiệp, cộng nghiệp ảnh hưởng biệt nghiệp. Cộng và biệt tạo thành mối tương quan trong cuộc sống. Đồng thời, cũng là sự ảnh hưởng của nhân quả. Chúng ta không thể phủ nhận điều này. Cho nên có câu:
“Nhất nhơn tác phước thiên nhơn hưởng”
“Độc thọ khai hoa, vạn thọ hương”.
(Một người làm phước, ngàn người hưởng,
Một cây trổ hoa, muôn vạn cây thơm)
Hoặc:
“Một người làm sấu, cả bọn vạ lây.”
“Một người làm tốt cả bọn được nhờ”
Những lời này nhằm nói đến mối liên chuyền mang tính chất nhân Quả trong cuộc sống. Một người có ảnh hưởng đến muôn người, tức một người gây nhân, không những có quả cho người đó thôi mà còn ảnh hưởng đến bao nhiêu người khác. Cho nên, một người làm xấu ác thì bao nhiêu người xung quanh bị vạ lây, và một người làm tốt lành thì bao nhiêu người xung quanh được nhờ, được tốt lành theo. Như một cây trổ hoa thơm thì những cây xung quanh cũng được thơm lây.
Nhân Quả có liên quan qua lại, cho nên trong một môi trường mà có nhiều người sống tốt thì những người khác họ cũng ảnh hưởng được nếp sống tốt đó. Nếu trong một môi trường mà có nhiều người xấu thì người khác họ cũng bị ảnh hưởng theo. Thế nên, khi sống phải hiểu được mối tương quan này, để cải tạo sinh hoạt tập thể và sinh hoạt cá nhân. Cá nhân tốt thì tập thể tốt và tập thể tốt thì ảnh hưởng đến cá nhân cũng tốt theo. Cá nhân xấu ảnh hưởng tập thể xấu, và tập thể xấu ảnh hưởng đến cá nhân cũng xấu theo. Cho nên có câu: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng” là vậy. Đây cũng là nói lên sự ảnh hưởng Nhân Quả giữa người này với người kia. Như một quốc gia có mấy chục triệu dân, mà một vua xấu thì ảnh hưởng đến mấy chục triệu dân biết chừng nào. Và nếu có một ông vua tốt thì cũng sẽ tốt cho dân chúng biết chừng nào. Ngược lại, dân không tốt thì cũng không tốt cho vua. Dân tốt thì vua cũng nhờ.
VII. TÁC DỤNG VÀ LỢI ÍCH CỦA GIÁO LÝ NHÂN QUẢ
Giáo lý Nhân Quả đặc biệt hướng dẫn con người đi vào cuộc sống nhân cách đạo đức, để xứng danh là người thức tỉnh theo quan điểm đạo Phật.
1. Chủ động, tích cực, tự tin
Tin nhân quả làm chúng ta an tâm. Tự tin vào chính bản thân mình, là khẳng định chủ quyền. Chính tự bản thân mình là người quyết định cuộc đời mình, là người thợ tự xây dựng đời mình, mình làm mình chịu, không bao giờ sai lệnh. Mình có quyền cải tạo đời sống của mình. Vì vậy, mình phải tin vào bản thân mình là làm những điều thiện để được hưởng đời sống an vui hạnh phúc. Lòng tự tin chính là sức mạnh vô cùng qúy báu, làm cho con người dám hoạt động, dám hy sinh hăng hái làm điều tốt.
2. Tự do và bình đẳng
Đem lại công bằng, bình đẳng tuyệt đối cho chúng sanh, khơi nguồn trí tuệ và từ bi trong tâm thức của mỗi người. Chúng ta phải tin vào nhân quả, nếu đời trước chúng ta đã tạo nhiều nhân lành thì đời này sẽ gặt được quả tốt. Khi chúng ta biết được gieo nhân lành thì hưởng quả tốt, từ đó luôn ý thức hành động và việc làm của mình, dù gặp hoàn cảnh khó khăn nào cũng không nản chí, quyết tâm diệt trừ nghiệp chướng, tạo nhân tốt, có trách nhiệm và bổn phận với chính bản thân mình, gia đình và xã hội.
3. Tránh mê tín dị đoan.
Hành vi mê tín bắt nguồn từ sự thiếu vắng niềm tin. Phật giáo cho rằng ngày ngày đều là những ngày tốt, giờ giờ đều là những giờ đẹp, chỉ cần phù hợp với chính lý nhân quả thì không có gì đáng cữ kiêng.
4. Làm việc gì cũng phải nghĩ đến hậu quả của nó.
Chúng ta thường hay nghe câu: “Bồ tát sợ nhân chúng sanh sợ quả” vì các Ngài đã thấy được nguyên nhân của bao tội ác nên đã ngăn ngừa và giữ gìn thân khẩu ý không gây tạo nghiệp ác, còn chúng sanh thì ngược lại, không biết giữ thân khẩu ý, tha hồ tạo tội, sát, đạo, dâm… đến khi chịu quả báo khổ đau mới hối hận thì đã muộn màng. Do đó, “trước khi làm việc gì cũng phải nghĩ đến hậu quả của nó”. Đó là bài học ngàn vàng mà tất cả chúng ta đều phải xem nó là hành trang bên mình trong cuộc sống hàng ngày. Khi chúng ta làm một việc gì, nói một lời gì, cũng nên nghĩ trước kết quả tốt hay xấu của nó, chứ đừng làm liều, nói liều, rồi phải chịu hậu quả đau khổ. Nếu chúng ta làm được như thế, thì chúng ta sẽ thấy tánh tình và hành vi của chúng ta, mỗi ngày mỗi cải tiến, các việc sai quấy sẽ giảm bớt, các việc lành càng thêm tăng trưởng.
5. Nhân quả liên quan đến vấn đề giáo dục và đạo đức nhân sinh
Nhân quả là một định luật tự nhiên của vũ trụ, hễ gây nhân thì có quả, nhân tốt thì quả tốt, nhân xấu thì quả xấu. Chính vì thế mà Nhân quả liên quan đến vấn đề giáo dục và đạo đức con người. Người tin sâu vào luật nhân quả thì không bao giờ giám làm điều gì sai trái ảnh hưởng đến bản thân và người khác. Đó chính là nền tảng của giáo dục hướng thượng cho con người, định hướng con đường phía trước nên và không nên làm gì. Đồng thời, khuyến khích con người hành thiện để chuẩn bị cho tương lai tốt đẹp, giúp cho con người có ý thức trách nhiệm với tư duy và hành động của mình, nhờ đó con người lánh xa mọi điều xấu, tự nguyện làm các hạnh lành theo hướng ly tham, ly sân, ly si, không ganh ghét, không đố kỵ, không gây tổn hại.
Giáo lý Nhân quả, với tinh thần giáo dục đạo đức con người tự có trách nhiệm với bản thân, không đổ lỗi cho hoàn cảnh, không chạy trốn, không cầu xin, phải biết chuyển hóa tự thân. Nhân quả là một phương pháp giáo dục vô cùng lành mạnh và tích cực, được xây dựng trên tinh thần tự giác, tự nguyện. Do đó, nếu vấn đề này được áp dụng vào mỗi con người, gia đình, học đường và xã hội, ắt hẳn sẽ đưa đến cuộc sống an lạc, hạnh phúc.
6. Nhân quả còn là tiến trình tu tập giải thoát
Chúng ta thấy rằng nhân quả là một vấn đề vi tế khó nghĩ bàn, vô cùng phức tạp, nhỏ nhiệm sâu kín, trùng điệp, chằng chịt, nó thông suốt ba đời, mà chỉ có tuệ giác của Thế Tôn mới thấu suốt triệt để. Trong kinh Tăng Chi I, đức Phật dạy: “Có bốn phạm trù không thể tư duy: Phật giới, thế giới của tâm, thiền định của người tu thiền và quả dị thục của nghiệp". Tuy vậy, chúng ta cũng có thể nêu ra một số dẫn chứng về nhân quả tương ứng qua các kinh điển như Kinh Ðịa Tạng, kinh Nhân Quả Thiện Ác, kinh Nikàya... Đức Phật dạy, từ nhân địa tu hành chứng đắc quả vị qua từng cấp độ khác nhau như:
- Tu Ngũ Giới, biết bố thí, cúng dường sẽ được tái sanh làm người.
- Tu Thập Thiện Nghiệp là nhân để sanh Thiên.
- Tu Tứ Diệu Đế thì sẽ được đắc quả Thanh Văn.
- Tu tập Mười Hai Nhân Duyên được quả Duyên Giác.
- Tu Lục Độ chứng quả Bồ Tát, Phật…
Ngược lại, nếu không biết tu tập, gây tạo nghiệp ác, thì sẽ mắc phải những quả báo như sau:
- Sát sanh, trộm cướp phải bị đọa địa ngục.
- Tham lam bỏn sẻn thì phải làm ngạ quỷ.
- Tà dâm làm súc sanh.
- Tham lam, đoạt tài sản của người thì quả là rơi vào ngạ quỷ.
- Nếu đa dâm, sẽ thác sinh làm chim sẻ, bồ câu, uyên ương...
- Đa si (quá si mê), sẽ thác làm lợn, dê...
- Đa kiêu mạn, phóng dật, sẽ thác sinh làm hổ, sói...
- Lòng dạ hiểm độc sẽ thác sinh làm rắn rít
- Hay trêu ghẹo, đời sau sinh vào khỉ, vượn...
Trong đời sống, ta cứ tạo tác theo chiều bản năng, đó là ta tự buột sợi dây nghiệp thức cực chắc vào cổ mình, để rồi theo chiều sanh tử cứ luân hồi mãi không dứt. Cứ như thế mà ta trôi dạt thênh thang trong sáu cõi. Để chấm dứt khổ lụy tái sanh, ta phải biết tu tập xả ly, chấm dứt mọi nghiệp ác, có như vậy mới mong thoát ly sanh tử luân hồi.
Khi thông suốt được giá trị của nhân quả sẽ vạch ra cho mọi người đường lối để đi đến an lạc giải thoát ngay trong hiện tại cũng như trong tương lai. Đồng thời, đây cũng là con đường cho tất cả những ai có ước nguyện muốn bước lên bậc Thánh, Phật… Để hướng đến mục tiêu hạnh phúc thật sự, con người tự rèn luyện cho mình hạnh nhẫn nhục, vững niềm tin trước mọi hành động, không phó mặt rủi may, không ỷ lại một cách mù quáng.
Hằng ngày chúng ta phải thường: “Hồi quang phản chiếu” trở lại với chính mình. Bằng khả năng hành trì tu tập tinh tấn của mình, để vươn lên đọan trừ các điều ác, thực hành các điều thiện, thanh lọc tự thân, theo con đường Giới Định Tuệ, làm chủ thân tâm và hoàn cảnh, nhất định sẽ thành tựu trí huệ giải thoát.
“Dục tri tiền thế nhân, kim sanh thọ giả thị
Dục tri lai hế quả, kim sanh tác giả thị”
(Muốn biết nhân đời trước, phải nhìn quả hiện tại
Muốn biết quả đời sau, phải nhìn nhân hiện tại)
Muốn có quả báo tốt đẹp thì tự thân chúng ta phải tạo ra cảnh thuận duyên để tránh quả báo xấu. “Ví như Đề Bà Đạt Đa luôn tìm cách hại Phật để thống lãnh Tăng đoàn, nhưng chính Đức Phật cũng phải nhờ vào nghịch duyên do Đề Bà Đạt Đa đem đến, để thực hành hạnh tu nhẫn nhục, xả bỏ mọi hận thù, do đó sớm chứng quả vị Phật”. Hiểu được như vậy thì chúng ta phải tự phấn đấu để vượt qua mọi khó khăn trong tu hành cũng như trong cuộc sống. Ai cảm nhận được hạnh phúc ở trong khổ đau thì người ấy mới thật là người có trí cầu tiến.
C. KẾT LUẬN
Nhân quả là giáo lý căn bản của Phật Giáo, là nền tảng trong kiếp sống nhân sinh, là một định luật khá phổ biến và công bằng “Tự tác hoàn tự thọ”. Áp dụng quy luật nhân quả vào trong cuộc sống hiện tại sẽ mang lại cho con người rất nhiều lợi ích thiết thực. Giáo lý Nhân Quả xây dựng một nền tảng luân lý Đạo đức bằng cách giáo dục con người tự ý thức rõ chính mình đối với những hành vi lời nói, ý nghĩ và thấy được tác hại của việc tạo nhân bất thiện. Để từ đó mọi người gây tạo thiện nghiệp, sống đúng luật, đúng pháp. Nhân quả còn giúp cho chúng ta hoàn thiện nhân cách, cải hóa xã hội.
Giáo lý Nhân Quả mở ra cho con người một hướng đi rất chủ động trong việc tạo dựng một đời sống an lạc, giải thoát. Nó giúp cho chúng ta xóa bỏ mọi quan niệm về định mệnh, tư tưởng thần quyền, đặc biệt là vấn đề mê tín dị đoan. Ngoài ra, nó còn định hướng cho cuộc sống mỗi người. Nếu muốn có cuộc sống hạnh phúc, chúng ta phải cần chủ động tạo cho mình một nhân cách thánh thiện, nếu muốn có cuộc sống an lạc phải tạo nhân giải thoát cho mình. Cuộc đời của mỗi người đều tự xây dựng nên chớ không do một đấng thần linh nào làm cả.
Vì vậy, khổ đau và hạnh phúc không phải là chuyện ngẫu nhiên mà có, đều do chúng ta tạo nên. Vậy muốn có cuộc sống hạnh phúc, an lạc thì phải tu tập nhân lành, phải sống ly tham, ly sân, ly si và từ bỏ sự tham đắm ngũ dục. Giáo lý nhân quả không chỉ dừng lại ở ý nghĩa về luân lý giáo dục đạo đức con người, mà còn hướng con người đến sự giác ngộ, đoạn tận phiền não thoát khỏi sanh tử luân hồi.
BÀI 3
A. DẪN NHẬP
Con người sinh ra trên cõi đời này, ai cũng mơ ước cho mình có một cuộc sống giàu sang hạnh phúc. Thế nhưng, những mơ ước, khát khao ấy đôi khi không được toại ý vừa lòng. Từ đó, họ sanh tâm chán nản và trách móc, nhưng họ không biết rằng, tất cả những điều mà họ đang thọ nhận trong cuộc sống hiện tại dù tốt hay xấu đều do họ gây nên tất cả. Vấn đề này, trong giáo lý Phật giáo gọi là nhân quả. Bởi vì, tất cả hiện hữu trong cuộc sống đều là hiện hữu của sự tương duyên, chúng luôn diễn ra trong vòng nhân quả. Tất nhiên, trong suốt tiến trình tạo tác đó, con người luôn luôn đóng vai trò trung tâm và chủ động. Theo lời Đức Phật dạy, không hề có một sự chi phối bởi một quyền năng hay bất kỳ một đấng tạo hóa nào, mà chỉ có hành động tạo tác của con người mà thôi. Từ đó hình thành đời sống an lạc hoặc khổ đau cho mỗi con người. Trong đó, mỗi tư duy và hành động cụ thể là một nguồn động lực để hình thành nên cuộc sống của người đó hạnh phúc hay đau khổ.
Theo quan niệm của đạo Phật thì mọi sự sai biệt trong đời sống con người là do Nhân quả mà chúng ta đã tạo ra. Đây là một định luật tất yếu chi phối đến muôn loài vạn vật, từ hữu tình cho đến vô tình. Để hiểu rõ giáo lý này có vai trò như thế nào và sự vận hành của nó ra sao, chúng ta cần tìm hiểu qua phần nội dung sau đây.
B. NỘI DUNG
I. ĐỊNH NGHĨA
Nhân quả là gì?
- Nhân: là nguyên nhân
- Quả: là kết quả
Nhân được ví như là hạt giống, là mầm chồi, là năng lực tác động.
Quả là hoa, là trái, là sự hình thành của năng lực tác động.
Ví dụ: Hạt lúa là nhân, phát triển thành cây lúa là quả.
Như vậy Nhân và quả là hai yếu tố có liên quan mật thiết với nhau, không thể tách rời. Trong mối tương quan nhân quả ấy gọi là tương quan duyên sinh, là hai trạng thái tiếp nối nhau trong quá trình hình thành. Do đó, trong nhân đã ẩn tàng quả, trong quả đã có chứa nhân. Nhân quả tương sanh, tương duyên tồn tại và phát triển. Như vậy, từ nhân đến quả phải trải qua một quá trình chịu sự tác động của các yếu tố của “duyên”. “Duyên” là một trong những yếu tố cần và đủ để một pháp được hình thành. Do đó, nhân quả nói một cách đầy đủ chính là “Nhân - Duyên - Quả”.
II. NHÂN QUẢ TÁC ĐỘNG TRONG CUỘC SỐNG
Chúng ta biết rằng, cuộc sống mênh mông không cùng không tận. Tất cả mọi sự vật trên đời, cho đến các tư duy, hành động của con người, dù là thiện hay bất thiện, dù nhỏ như cây kim, cọng cỏ, bất cứ việc gì cũng không thể ra ngoài lý nhân quả. Bởi thế cho nên, từ xưa đến nay, đứng về mặt giáo dục, văn hóa của xã hội, chúng ta thấy không riêng gì đất nước Việt Nam hay các nước thắm nhuần tinh hoa Phật giáo, ngay cả trên toàn thế giới có rất nhiều, rất nhiều các tư tưởng đã ảnh hưởng lý Nhân Qủa, phổ biến một cách rộng rãi qua các mảng của xã hội, được lồng vào các phim ảnh lành mạnh, mang tính giáo dục tích cực, nhằm hướng cho con người quay về nẻo thiện. Đơn cử như các câu chuyện: Tấm Cám, Ăn Khế Trả Vàng, Thạch Sanh Lý Thông, Nhân Danh Công Lý (Việt Nam), Nữ Cảnh Sát Siêu Phàm (Hongkong), A Li Ba Ba (Ấn Độ), Con Bạch Tuộc (Ý) … và như hiện nay bộ phim nổi tiếng lúc nào cũng được sự ủng hộ, đón nhận của mọi tầng lớp trong xã hội, từ trong nước đến ngoài nước đó là “Bao Thanh Thiên” (Đài Loan) đều mang tính chất đặc thù Lý Nhân quả.
Hơn nữa, từ ngàn xưa đến nay, pháp luật qua các thời đại luôn đưa ra luật hình sự, nhằm áp dụng hình phạt đối với những kẻ ác và luôn bảo vệ người lương thiện. Tất cả đều nói lên tính công bằng của nhân quả, người gian manh xảo quyệt, ác tâm chuyên hại người sẽ bị quả báo thê thảm. Còn người nhân hậu, sống tốt trên cuộc đời sẽ được hạnh phúc an vui. Cho nên, trong quá trình kinh nghiệm sống, nhân gian ta đã đúc kết rất nhiều các câu ca dao như: “Trồng dưa đặng dưa, trồng đậu đặng đậu”. “Ở hiền gặp lành”, “Gieo gió gặp bão”.
Hoặc:
“Lấy vật chất làm của, của sẽ rời xa ta
Lấy phúc đức làm của, của theo ta trọn đời”
Tuy nhiên, trên thực tế chúng ta thấy có những người sống rất tốt, hay giúp đỡ mọi người, không làm những điều ác nhưng họ lại luôn gặp những bất hạnh. Ngược lại, có nhiều người cả đời sống ích kỷ, không giúp đỡ ai, không tốt với mọi người, luôn sát sanh hại vật nhưng lại giàu có, uy quyền. Từ những thắc mắc trên dẫn đến nghi ngờ và họ cho rằng Luật Nhân Qủa không công bằng. Đó là vì chúng ta chưa hiểu, chưa sáng tỏ vấn đề một cách rốt ráo. Để lý giải vấn đề này, chỉ có giáo lý nhà Phật mới có đủ khả năng cho chúng ta hiểu biết đúng đắn, đồng thời, giúp chúng ta sống tốt cũng như gặt hái nhiều thành công trong cuộc sống.
III. PHÂN LOẠI NHÂN QUẢ
Có thể nói rằng, giáo lý Nhân Qủa là nền tảng căn bản của toàn bộ hệ thống Kinh điển Đạo Phật. Cho nên, cả Phật giáo Nguyên thủy và Phật giáo Phát triển đều ứng dụng tu tập trên nền tảng này. Thật vậy, theo lăng kính của Duy Thức, tiến trình từ nhân đến quả gọi là “Quả Dị Thục” (sự chính muồi) được hình thành qua ba đặc tính. Gồm có: Dị thời nhi thục, Dị loại nhi thục và Biến dị nhi thục.
1. Dị thời nhi thục (khác thời hình thành)
Nghĩa là từ khi gieo nhân cho đến khi nhận kết quả, là hai thời điểm khác nhau. Chẳng hạn như từ lúc nộp đơn vào học lớp giảng sư đến khi tốt nghiệp nhận bằng là hai thời điểm khác nhau.
Cũng như thế, con người tạo nghiệp thiện hay bất thiện, đến khi thọ lãnh quả báo là hai thời điểm khác nhau và được biểu thị qua một trong ba quá trình hình thành, đó là: Hiện báo, Sanh báo và Hậu báo.
a. Hiện báo: Là quả báo xảy ra ngay trong đời này. Chẳng hạn như ta cho tay vào lửa liền bị phỏng. Cũng như các em học sinh, trãi qua quá trình chịu khó học tập, đậu vào các trường đại học và sau khi tốt nghiệp ra trường, các em đều trở thành Bác Sĩ, kỹ sư v.v….Hoặc như sự kiện cướp tiệm vàng Ngọc Bích ở Bắc Giang vào tháng 2/2012. Sau khi hành động cướp của, giết người, phạm nhân dù đã bỏ trốn sang Trung Quốc. Thế nhưng, lưới trời lồng lộng, ác lai gặp ác báo, bởi luật nhân quả luôn công bằng, luôn chi phối hạnh nghiệp của tất cả chúng sanh nên y cũng bị bắt và lãnh áng 20 năm tù. Do đó, khi tạo nghiệp thiện hay bất thiện, đời này ta nhận được kết quả của việc làm ấy, đó là hiện báo.
b. Sanh báo: Là gieo nhân đời này, qua đời sau mới thọ quả báo. Chẳng hạn như đời này chúng ta biết tu ba nghiệp thân, khẩu, ý của mình, biết quy y Tam Bảo, giữ gìn năm giới, biết yêu thương, quan tâm giúp đỡ mọi người, tham gia các việc thiện, không làm tổn hại đến ai, kể cả các loài vật và môi trường. Chắc chắn sau khi thân hoại mạng chung, tức kiếp sau, ta không những được trở lại làm người, mà còn được sanh vào gia đình có đạo đức, với danh phận con nhà giàu, đẹp trai, thông minh, học giỏi.
Hoặc như khi ta tu tập, với tâm thành phát nguyện cầu vãng sanh tây phương cực lạc của Đức Phật A Di Đà. Do “Nhân” phát nguyện, tinh tấn hành trì niệm Phật một cách miên mật và gieo tạo nhiều công đức lành là “Duyên” nên sau khi từ bỏ xác thân giả tạm này, lẽ tất nhiên liền được vãng sanh Tây Phương Cực Lạc là “Qủa”.
Hoặc như đời trước ta tham lam bỏn xẻn, không chịu giúp đỡ ai, xử dụng của cải một cách phung phí, xài tiền không đúng chỗ, sát sanh hại vật, hay sân hận, thân, miệng, ý luôn nghĩ đến những điều bất thiện. Cho nên, đời nay ta chịu quả báo nghèo khổ, bệnh tật, xấu xí như thế. Như trong kinh Tăng Chi Đức Phật kể về một câu chuyện “Buôn bán thành công hay thất bại của một người” như sau:
Một hôm, Xá Lợi Phất bạch hỏi Đức Thế Tôn về nguyên nhân một người buôn bán thành công hay thất bại.
Đức Phật dạy: “Này Xá Lợi Phất (Sàriputta), có hạng người đi đến vị Sa môn, hứa hẹn như sau: “Thưa Tôn giả, hãy nói lên điều Tôn giả cần giúp đỡ” nhưng người ấy không cho như đã hứa. Nếu từ chỗ ấy mạng chung đi đến chỗ này, dầu cho người ấy có buôn bán gì, buôn bán ấy cũng đi đến chỗ thất bại”.
“Ở đây, này Xá Lợi Phất, có hạng người đi đến vị Sa môn hứa hẹn giúp đỡ, và người ấy đã cho nhiều hơn như đã hứa. Người ấy sau khi thân hoại mạng chung, đi đến chỗ này, dẫu buôn bán gì cũng đạt được thành tựu ngoài ý muốn”.(ĐTKVN, Tăng Chi Bộ I, chương 4, phẩm Không hý luận, phần Buôn bán, VNCPHVN ấn hành 1996, tr.708)
Thật vậy, khi một người được ta hứa giúp đỡ, họ sẽ khắc khoải trông chờ việc thực hiện lời hứa của ta. Nếu như ta không thực hiện sẽ làm cho người kia thất vọng. Chúng ta tạo niềm hy vọng bằng lời hứa, xong lại gây cho người nỗi thất vọng bằng thất hứa. Chính do ta gieo nhân như thế nên quả báo làm việc gì cũng dẫn đến tuyệt vọng ở mai sau. Ngược lại, sự thực hiện đúng như lời hứa, hoặc vượt hơn lời hứa khiến cho người vui mừng. Cho nên đời sau khi ta làm việc gì cũng đem lại kết quả thành công và thành công hơn những dự tính ban đầu. Đó là quả của sanh báo.
c. Hậu báo: Là gieo nhân một đời nhưng đến nhiều đời sau mới thọ quả báo. Như trong kinh Thủy Sám ghi lại câu chuyện Ngài Ngộ Đạt Quốc Sư và mụt ghẻ mặt người. Mười kiếp về trước, Ngài Ngộ Đạt là một vị quan Viên Án, do giết lầm Triệu Thố nên nỗi oán hận theo báo thù kéo dài mãi đến 10 kiếp sau, Triệu Thố mới có cơ duyên hóa thành mụt ghẻ mặt người nơi đầu gối của Ngài để rửa hận.
Do đó, tất cả mọi sự vật hiện tượng trên đời đều có nguyên nhân. Cho nên, sở dĩ con người đẹp, xấu, giàu, nghèo, hạnh phúc hay đau khổ đều có nguyên nhân. Do quá trình từ nhân đến quả không chỉ đơn giản như “Trồng Dưa được Dưa, trồng Đậu được Đậu”. Bởi tính năng luân chuyển của nhân quả còn rất đa dạng, đó là đặc tính thứ hai “Dị thời nhi thục”.
2. Dị loại nhi thục (khác loại hình thành)
Là từ khi gieo nhân cho đến khi trổ quả, tính chất không đồng. Nghĩa là tạo nhân thế này mà quả hoàn toàn khác nhân. Như trường hợp làm mười ác nghiệp mà đời sau được sanh thiên, làm mười thiện nghiệp mà đời sau lại đọa địa ngục, tại sao vậy? Trong Kinh “Ðại Nghiệp Phân Biệt” Trung Bộ III, Đức Phật cho biết đó là do có sự can thiệp của "cận tử nghiệp", tức là lúc gần chết người đó có chánh kiến hay tà kiến.. Nếu có chánh kiến thì được siêu thăng, có tà kiến sẽ bị đọa lạc.
Do đó, trong nhân quả không có tình trạng đóng khung trong công thức cố định. Trái lại, nhân quả rất linh động và kết quả nhiều hơn hay ít hơn, đều tùy thuộc vào các “Duyên” trong tiến trình chuyển sinh. Cũng như thế, số phận của con người tùy theo nhân thiện, hoặc cực thiện. Nhân ác, hoặc cực ác, cộng thêm do các duyên tác động vào nên kết quả cũng đưa đến sự khác biệt.
Chẳng hạn như cả hai người cùng thực hiện việc bố thí cho người nghèo, nhưng người cho với tâm thành kính chia sẻ, tôn trọng và biết ơn người nhận, được phần phước báo hơn người cho với tâm xem thường người khác, hoặc làm vì danh. Chẳng hạn như một người cố tình gây thương tích, cố ý làm chết người sẽ bị xử phạt nặng hơn người vô tình gây thương tích hoặc không cố ý làm chết người. Tất cả dù là vi tế đến đâu, nhân quả vẫn ảnh hưởng và chiêu cảm một cách công bằng.
Như câu chuyện “Cố ý cán chết người” của một tài xế đã cán thiếu nữ 3 lần, tiếp tục ra tòa. Thứ Năm, 29/4/ 2010, Tòa Án Nhân Dân tối cao tại TP HCM xét xử phúc thẩm tài xế “máu lạnh” Đặng Hữu Anh Tuấn, người điều khiển xe container cán qua người thiếu nữ 3 lần, theo quyết định kháng nghị tăng hình phạt của Viện kiểm soát. Từ 8 năm lên 18 năm tù (http://hcm.24h.com.vn/an-ninh-hinh-su/tai-xe-can-thieu-nu-3-lan-tiep-tuc-ra-toa-c51a293717.html).
Như câu chuyện của ngài Mục Kiền Liên, Ngài là một trong những vị đại đệ tử lớn của Đức Phật. Ngài đã bị ngoại đạo đánh chết, không phải là không có nguyên nhân. Khi các vị Tỳ Kheo bạch Phật để tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến cái chết của Ngài Mục Kiền Liên. Đức Phật dạy: “Sở dĩ Mục Kiền Liên bị ngoại đạo đánh chết là do tiền kiếp xa xưa, ông vì nghe lời vợ đem cha mẹ già mù lòa vào rừng, sau đó còn giả làm tên cướp đến đánh chết cha mẹ để khỏi phải nuôi”.
Do nhân ác độc đó, Ông đọa địa ngục vô số kiếp. Khi được trở lại làm người vì ác báo chưa hết, nên một trăm kiếp liên tiếp vẫn còn bị đánh chết với thân xác bị xé tan tành. Đó là quả báo tương ứng với ác nghiệp đã gieo”(http://thuongchieu.net/index.php?option=com_content&view=article&id=2592:caichetmuckienlien&catid=56:truyn-phap-cu&Itemid=359). Cho nên trong Kinh Pháp Cú, đức Phật dạy rằng:
“Chớ khinh điều ác nhỏ
Cho rằng chưa đến mình
Kẻ ngu ác dồn chứa
Như nước nhỏ đầy bình”
Cũng thế:
“Chớ khinh điều thiện nhỏ
Cho rằng chưa đến mình
Người trí chứa đầy thiện
Do chất chứa dần dần”
3. Biến dị nhi thục (tính chất thay đổi của quả)
Nghĩa là từ nhân đến quả, trãi qua nhiều quá trình diễn biến khác nhau (Biến Dị) nên dẫn đến quả cũng khác nhau. Ví như trái Xoài khi còn xanh thì chua nhưng khi chín vàng thì ngọt. Đây là sự thay đổi khác đi về tính chất của quả.
Hoặc như “Nếp”, khi ta nấu với Đường, Dừa trở thành Xôi, nhưng khi đem ủ với men thành Cơm Rượu, hoặc khi ta đem xay thành bột và sử dụng với những nguyên liệu khác, có thể chế biến ra các thành phẩm như Chè, Bánh vv… Đó chính là tính chất thay đổi của quả.
Cũng như thế, khi chúng ta lỡ gieo tạo nghiệp ác nếu ta không biết cải thiện, chắc chắn quả báo đến với ta, nhưng nếu ta biết hồi tâm hướng thiện, biết lập công bồi đức, làm tất cả các việc lành. Tất nhiên, “phước lành thêm lớn, càng cao càng dầy” có thể chuyển được nghiệp từ nặng thành nhẹ, từ nhẹ thành không. Ví như một phạm nhân nếu biết ăn năn hối cải, có quá trình cải tạo tốt. Tất nhiên, sẽ được pháp luật nhà nước khoan hồng giảm mức án cho y.
Như câu chuyện “phạm nhân được giảm án, tha tù nhân dịp 30-4 và 1-5”. Ngày 26/4/2013 Hội đồng xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù của TP. Hà Nội đã tổ chức công bố quyết định giảm án, tha tù trước thời hạn cho 211 phạm nhân.
Đợt giảm án, tha tù lần này tiếp tục thể hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo của Đảng Nhà nước ta nhân dịp Kỷ niệm 38 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975) và ngày Quốc tế Lao động 1/5, áp dụng đối với những phạm nhân biết ăn năn hối cải, có quá trình cải tạo tốt.(http://hanoimoi.com.vn/Tin-tuc/Xa-hoi/587244/211-pham-nhan-duoc-giam-an-tha-tu-nhan-dip-30-4-va-1-5) Đó là từ nặng trở thành nhẹ. Còn từ nhẹ trở thành không như đối với những người phạm sai lầm nhỏ, mức án ngắn hạn. Nếu trong quá trình cải tạo tốt, khi được giảm án liền được trở về. Đó là từ nhẹ trở thành không.
Điều quan trọng là sau khi mắc phải sai lầm, ta phải biết hồi tâm hướng thiện, làm tất cả các việc lành mới có thể chuyển được nghiệp quả khổ đau. Đây chính là tính năng linh động chuyển biến, tùy vào các “Duyên” có thể làm thay đổi quả và cũng chính vì điều này mà con người cần phải tu. Tức cải thiện, sửa đổi “Nhân” xấu ác bằng cách gieo tạo thật nhiều công đức lành nhằm làm thay đổi, khắc phục hậu quả xấu trở nên tốt đẹp hơn, tiến hóa hơn. Nghĩa là từ một chúng sanh với nhiều tội lỗi, nếu biết tích chứa nhiều điều thiện ta sẽ tiến dần lên địa vị Thánh quả và thành Phật ở mai sau. Đây mới là giá trị đặc sắc của quy luật này.
IV. ỨNG DỤNG TRONG CUỘC SỐNG
1. Lạc quan
Suy cho cùng, phàm làm người, tất cả chúng ta đều có nghiệp nhân bất thiện và tất nhiên phải đối diện với quả báo của chính mình. Chúng ta “Không thể bay lên không trung, không thể lặn xuống biển, hay vào trong núi sâu hoặc ra khỏi thế gian này mà trốn khỏi quả báo của ác nghiệp mình làm”.(Thích Thiện Siêu, dịch, kinh Pháp Cú, VNCPHVN ấn hành, năm 1993, trang 36.) Và chắc chắn rằng, có vay ắt phải có trả. Không trả với hình thức này cũng phải trả với hình thức khác. Vì thế, khi hiểu đúng Luật Nhân quả, ta sẽ không còn phiền muộn trong mọi hoàn cảnh, không than thân trách phận, không đổ lỗi cho người, không còn lo sợ pháp thuật, bùa chú, thần linh.
Như kiếp này ta bệnh tật nhiều, dù không muốn nhưng ta vẫn phải đối diện, tiếp nhận với thái độ bình thản. Đồng thời, quyết tâm nỗ lực cải tạo thân tâm, tích cực làm nhiều việc thiện, tức chuyển hóa dần ba nghiệp “thân, miệng, ý” trở thành ba nghiệp thiện. “Như đất tiếp nhận các thứ nhơ, sạch một cách trọn vẹn và chuyển hóa tất cả, kể cả cỏ rác, phân dơ, xác thối vv… trở thành đất mầu mở để phụng sự cho đời”. Cũng như thế, chính thái độ lạc quan không phiền não khi xúc cảnh, ta mới có khả năng làm chủ nghiệp lực và tu tạo công đức lành nhằm chuyển đổi nghiệp quả của mình.
2. Chuyển hóa tâm thức hướng thiện
Đức Phật dạy: “Này các Tỳ kheo! Nếu một người nào đó, nói một người khác phải chịu quả báo theo đúng hành vi của người ấy tạo, trong trường hợp ấy, này các Tỳ kheo sẽ không có đời sống tôn giáo, sẽ không có cơ may để đoạn trừ toàn bộ khổ não.
Nhưng này các Tỳ kheo! Nếu có người nào đó nói rằng: quả báo mà một người chịu thích ứng với hành vi của người ấy làm, trong trường hợp ấy, này các Tỳ kheo, có đời sống tôn giáo, có cơ may để đoạn trừ toàn bộ khổ não”. (HT. Thích Minh Châu, dịch, Tăng Chi Bộ I, Đại Tạng Kinh Việt Nam, năm 1996, trang 284, 285.)
Như câu chuyện của ngài Angulimala tu tập chứng quả A La Hán. Angulimala trước kia là kẻ giết người hung hãn, nhưng sau khi được Đức Phật cảm hóa, trải qua quá trình tinh tấn tu tập ông chứng quả A La Hán. Cho nên, nếu một người cố gắng gieo tạo nhiều công đức lành, không những chuyển được nghiệp nhân bất thiện và còn có thể thành Phật trong tương lai. Chính vì thế, nên trong kinh Pháp Hoa Đức Phật dạy: “Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành”. Tuy nhiên, muốn có được quả tốt, tất phải tạo nhân duyên lành. Tức ứng dụng tu tập qua phương pháp chuyển nghiệp.
3. Phương pháp chuyển hóa
Để chuyển nghiệp bất thiện trở thành nghiệp thiện (xấu ra tốt), có rất nhiều phương pháp để tu tập, nhưng đều không ngoài việc tu thân, tu giới, tu tâm, tu tuệ. Nghĩa là tu tập “Giới – Định – Tuệ”. Bởi Đức Phật dạy: “Người gây nhân bất thiện trước, nhưng sau người này biết tu thân, tu giới, tu tâm, tu tuệ thì quả sẽ đổi. Nếu người gây nhân bất thiện và không biết tu thân, tu giới, tu tâm, tu tuệ thì gây nhân bất thiện sẽ chịu quả khổ đau. ( HT. Thích Minh Châu , dịch, kinh Ví Dụ Hạt Muối, phẩm Nghiệp Tương Ưng – Trung A – Hàm 1, VNCPHVN, 1992, tr 101)
● Tu thân: Tu là sửa, tu thân là sửa đổi những hành vi bất thiện của thân trở nên thiện. Như trước đây ta hay đánh mắng người, từ nay ta từ bỏ.
● Tu giới: Là vâng giữ những giới đã thọ. Như không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu …
● Tu tâm: Là thường xuyên kiểm soát tâm ý của mình, nếu tâm khởi nghĩ những điều bất thiện thì liền chuyển hóa tâm trở nên thiện. Chẳng hạn, như khi bị người mắng chửi tâm ta liền khởi nghĩ tức giận. Ngay nơi ấy ta biết rằng: khi tức giận miệng ta sẽ nói những lời không đẹp, gây đổ vỡ, làm hại mình, hại người nên ta tuyệt đối không để cơn tức giận hoàn hành, và tìm hiểu nguyên nhân vì sao họ đối xử với ta như thế nhằm khắc phục hậu quả.
Như trong Kinh Hoa Nghiêm dạy rằng: “Nhất thiết duy tâm tạo”. Tất cả mọi sự vật hiện tượng đều do tâm tạo ra. Tâm sinh thế giới sinh, tâm tạo thiên đường, tâm tạo địa ngục. Nếu tâm thanh tịnh, thế giới thanh tịnh, nếu tâm uế tạp, thế giới uế tạp”.(Minh Đức – Thanh lương, Bồ Tát Đạo, tập II, nxb Tp. HCM, 1999, trang 452)
● Tu tuệ: Nghĩa là ứng dụng chánh kiến, chánh tư duy vào trong cách cư xử, sinh hoạt hằng ngày. Chẳng hạn như thấy được nguyên nhân họ mắng chửi ta là do ta có lỗi với họ, hoặc do sự hiểu lầm. Từ đó, ta thành tâm nhận lỗi sám hối, hoặc chờ thuận tiện giải bày nhằm cải thiện tình trạng với họ tốt hơn.
V. LỢI ÍCH KHI ÁP DỤNG LUẬT NHÂN QUẢ
Qua sự trình bày về thuyết Nhân quả chúng ta thấy rõ rằng: Tất cả những khổ đau hay hạnh phúc trên cuộc đời là do mỗi người tự gieo tạo, không do Thượng đế hay ai ban tặng. Chính vì thế, nên khi thành công và vinh quang đến, ta không tự cao ngã mạn, khi gặp đau khổ thất bại cũng không đau khổ buồn phiền, mà chúng ta hãy chấp nhận nó. Bởi vì:
“Không ai có thể làm cho ta nhiễm ô
Cũng không ai làm cho ta trong sạch
Trong sạch hay nhiễm ô
Là tự nơi ta tất cả”
(Minh Đức – Thanh lương, Bồ Tát Đạo, tập II, nxb Tp. HCM, 1999, trang 48)
Do đó, nét chủ đạo trong thuyết nhân quả của nhà Phật luôn khích lệ con người nỗ lực vươn lên, chuyển hóa hoàn cảnh, chuyển hóa khổ đau, làm cho đời mình ngày một hoàn thiện hơn. Nếu như ta không có ý chí vươn lên, không nỗ lực tu tập để cải thiện đó là lỗi do ta. Hãy nhìn một người nghèo khổ, với sự nỗ lực, cần cù làm lụng, nên họ có thể trở thành người giàu có. Cũng như thế, chúng ta luôn nỗ lực sống hướng thiện, chắc chắn chuyển đổi được nghiệp quả đã gieo. Ngoài ra, luật nhân quả còn:
- Giúp chúng ta tránh được những mê tín dị đoan và những tin tưởng sai lầm vào thần quyền.
- Luật Nhân quả đem lại lòng tin tưởng vào chính con người.
- Hiểu được Nhân quả giúp cho chúng ta không chán nản, không trách móc.
- Luật Nhân quả giúp ta làm gì cũng nghĩ đến hậu quả của nó.
C. KẾT LUẬN
“ Dục tri tiền thế nhân
Kim sanh thọ giả thị
Yếu tri lai thế quả
Kim sanh tác giả thị”
Qua bài kệ trên cho chúng ta thấy được rằng hễ chúng sanh đã gieo nhân gì thì gặt quả ấy. Thế nên, dù thiện dù ác đều do ta tạo và ta tự nhận lấy quả báo từ hành động thiện ác đó đã chiêu cảm nên lành hoặc dữ, tốt hay xấu…Cho nên, trong Phật Học Phổ Thông của Hòa thượng Thiện Hoa có nói: “Phàm làm việc gì phải nhớ đến hậu quả của nó”
Vì vậy, giáo lý Nhân quả có vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng nền tảng luân lý đạo đức con người. Là người học Phật, chúng ta cần hiểu rõ giá trị của Luật Nhân quả và đem sự hiểu biết ấy áp dụng vào đời sống tu tập hàng ngày, nhất là phải cẩn thận mọi cử chỉ lời nói và hành động của mình, đồng thời cần phải xây dựng niềm tin trên cơ sở Nhân quả, giúp chúng ta tránh xa các điều dữ, phát triển các hạnh lành, để từ đó kiến tạo cho mình một đời sống an lạc hạnh phúc ngay tại thế gian này. Cho nên, trong Kinh Pháp Cú Ðức Phật có dạy: "Ý dẫn đầu các pháp, ý làm chủ tạo tác, nếu với ý ô nhiễm, nói năng hay hành động, khổ não bước theo sau, như xe chân vật kéo… Nếu với ý thanh tịnh, an lạc bước theo sau, như bóng không rời hình".
Nhân quả ví như dòng điện, không ai có thể nhìn thấy dòng điện dài, ngắn, mập, ốm, cao thấp ra sao, cũng không thể sờ nắm được nhưng không vì thế mà cho là không có điện. Vì khi nào nhân duyên đầy đủ, chắc chắn điện sẽ hiển lộ ra bên ngoài và khi thiếu đi một trong các “Duyên” tức điều kiện không dầy đủ, quả nhiên “Điện” ẩn tàng chứ không mất đi đâu hết. Ví như bóng đèn với đầy đủ các yếu tố để phát sáng, điện liền hiển lộ ánh sáng qua bóng đèn. Hoặc khi đầy đủ các thiết bị làm mát, điện hiển lộ quạt quay vv...Cũng như thế, cho dù chúng ta có xem thường Luật Nhân Quả, không tin hay phủ nhận Luật Nhân Quả, nhưng sự thật chắc chắn rằng, Nhân quả vẫn âm thầm chi phối hết tất cả. Đối với những việc thiện, ác do chúng ta tạo, khi nhân duyên đầy đủ, quả lành, dữ chắc chắn sẽ đến với chúng ta.
Do đó, muốn từ bỏ nhân ác, cách duy nhất là chuyển hóa tâm ác trở nên tâm thiện. Vì tâm ví như mảnh đất, nếu ta biết trồng hoa mầu thì cỏ dại không có chỗ phát triển. Cũng như thế, nếu tâm chúng ta nghĩ điều lành, làm điều lành, chắc chắn quả lành sẽ đến với ta. Do đó, một người, hai người cho đến tất cả mọi người trên hành tinh này nếu biết tin sâu nhân quả một cách không lầm lẫn, nếu thân miệng ý không gieo tạo ác nghiệp, chỉ thuần làm điều lành, tất nhiên các nạn như thiên tai, chiến tranh, khủng bố, cướp của, giết người, những việc làm bất thiện không thể xảy ra. Cũng có nghĩa là người người được an vui, gia đình được hạnh phúc, xã hội được yên bình và thế giới này sẽ trở thành cõi Tịnh Độ giữa trần gian.
Chính vì thế, “Buổi sáng nghĩ điều lành, buổi trưa làm điều lành, buổi tối mộng điều lành, ta có một ngày vui. Làm bếp nghĩ điều lành, lặt rau nghĩ điều lành, rửa chén nghĩ điều lành, ta có 1 ngày vui. Ta sẽ có Niết – Bàn, ngay nơi giữa cuộc đời này, ta sẽ có hòa bình, ngay nơi trái tim ta.” (HT. Nhất Hạnh)
- Giá trị nhân văn của ngày tri ân cha mẹ - 05/07/2024
- Sự kiện tháng tư - 15/05/2024
- Người mang trí tuệ đến nhân gian - 14/05/2024
- Kính mừng Phật đản - 30/04/2024
- Phật giáo và vai trò kiến tạo giá trị đạo đức trong phát triển bền vững tại Việt Nam - 28/08/2023
- Kinh Pháp Hoa Bổn Môn - 22/10/2022
- Kinh sám hối hồng danh - 22/10/2022
- Kinh Vu Lan - 22/10/2022
- Kinh Dược Sư - 22/10/2022
- Kinh Di Đà - 22/10/2022
- Ý nghĩa xuất gia - 17/10/2022
- Tam thân Phật - 17/10/2022
- Tam pháp ấn - 17/10/2022
- Tứ chánh cần - 17/10/2022
- Bát Chánh Đạo - 17/10/2022
- Lục độ - 15/10/2022
- Đi Chùa lễ Phật - 15/10/2022
- Thất Thánh Tài - 15/10/2022
- Tứ quả Thanh Văn - 15/10/2022
- Thập Thiện Nghiệp - 15/10/2022
- Tứ Vô Lượng Tâm - 15/10/2022
- Tứ Nhiếp Pháp - 15/10/2022
- Lục Hòa - 15/10/2022
- Nghiệp báo - 15/10/2022
- Ngũ Đình Tâm Quán - 15/10/2022
- Tứ Niệm Xứ - 15/10/2022
- Ăn chay theo quan điểm đạo Phật - 15/10/2022
- Ngũ căn – Ngũ lực - 15/10/2022
- Luân hồi - 15/10/2022
- Tụng kinh – niệm Phật - 15/10/2022
- Ngũ thừa Phật giáo - 15/10/2022
- Sám hối - 15/10/2022
- Đạo Phật - 15/10/2022
- Tam Vô Lậu Học - 15/10/2022
- Ngũ uẩn - 15/10/2022
- Tam pháp ấn - 15/10/2022
- Mười hai nhân duyên - 15/10/2022
- Tứ Diệu Đế - 15/10/2022
- Ý nghĩa thành đạo - 15/10/2022
- Quán Từ Bi - 15/10/2022
- Vô thường - 15/10/2022
- Quy y Tam Bảo - 15/10/2022
- Tứ vô lượng tâm - 15/10/2022
- Ý nghĩa Phật Đản - 15/10/2022
- Vu lan báo hiếu - 15/10/2022
- Cắt đứt tham dục - 06/05/2022
- Hồng danh sám hối - 03/01/2022
- Lợi hành nhiếp của Phật giáo: Hiếu ứng quan tâm hạnh phúc và lợi ích - 07/05/2021
- Hạnh nguyện của người xuất gia - 25/11/2020
- Đức Phật - Mùa Phật Đản - 30/04/2020
- Tứ Vô Lượng Tâm - 28/04/2020
- Chữ Hiếu Trong Đạo Phật - 26/04/2020
- Đi Chùa Lễ Phật - 26/04/2020
- Tướng tùy tâm sinh: Người có tâm từ bi sẽ được cải biến cả dung mạo lẫn số mệnh - 12/04/2020
- Hạnh phúc nhặt bên đường - 25/11/2019
- Phụ Nữ Trong Chánh Pháp - 25/11/2019
- Thánh hạnh vĩ đại của Đức Phật - 25/11/2019
- Kiểm soát sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý - 25/11/2019
- Đức Phật: Con người của mọi thời đại - 25/11/2019
- 620 câu hỏi trắc nghiệm giáo lý căn bản - 24/11/2019
- Nương theo hạnh nguyện Quán Âm - 22/07/2019
- Lời Phật dạy sâu sắc về việc hãy sống trọn vẹn hạnh phúc trong hiện tại - 18/07/2019
- Đức Phật dạy về sự bình đẳng dù sinh con trai hay con gái - 18/07/2019
- Tội nào nặng nhất, nghiệp báo đáng sợ nhất? - 18/07/2019
- Rượu gây ra 36 tội lỗi nên đức Phật cấm uống, cấm mời, cấm buôn bán rượu - 18/07/2019
- Lời Phật dạy sâu sắc về việc nhẫn nhịn trong cuộc sống - 18/07/2019
- Đức Phật dạy về cúng thí và ngạ quỷ - 18/07/2019
- Mê tín dị đoan, do đâu? - 17/07/2019
- 9 cách thay đổi số phận khi áp dụng các giáo lý nhà Phật - 15/07/2019
- Bốn hạng người luôn sống khổ - 15/07/2019
- Theo lời Phật dạy thì không có ai là đấng sáng thế - 06/07/2019
- Luận bàn về ranh giới giữa Mê và Ngộ - 06/07/2019
- Đạo Phật và nghệ thuật hóa giải sân hận - 06/07/2019
- Tôn giả Ma Ha Ca Diếp: Người dốc lòng giữ gìn phạm hạnh - 06/07/2019
- Tại sao đức Phật lại nói về thuyết luân hồi? - 06/07/2019
- Pháp tu căn bản của Phật tử - 06/07/2019
- Làm ơn hãy nghĩ đến sự tồn vong của chánh pháp và lợi ích chúng sanh - 06/07/2019
- Tu chứng - 06/07/2019
- Điều phục ý căn - 06/07/2019
- Hiểu và Ngộ - 06/07/2019
- Thiền và tâm lý trị liệu - 06/07/2019
- Tâm linh Phật giáo và xã hội đương đại - 06/07/2019
- Khái niệm giải thoát và giải thoát sinh tử trong đạo Phật - 06/07/2019
- Pythagore và thuyết luân hồi - 06/07/2019
- Đức Phật là thầy dẫn đường bậc mô phạm đạo đức - 06/07/2019
- Bàn về hai chữ cư sĩ trong kinh Tăng nhất A-hàm - 06/07/2019
- Cuộc sống hoàn toàn tốt đẹp bền vững theo Phật giáo - 06/07/2019
- Nguồn gốc và ý nghĩa của kinh Lương hoàng sám pháp và Thủy sám pháp - 06/07/2019
- Đức Phật dạy về cách xa lìa ái dục, xử lý năng lượng tình dục - 06/07/2019
- Các thiên tài nổi tiếng lý giải về Đức Phật - 06/07/2019
- Thế nào là mười nghiệp lành? - 06/07/2019
- Cuộc sống hoàn toàn tốt đẹp bền vững theo Phật giáo - 30/06/2019
- Bố thí, cúng dường cũng có năm bảy đường - 30/06/2019
- Hạnh phúc của người Phật tử - 16/06/2019
- Pháp lạc trong tu học - 16/06/2019
- Quán vô thường để chứng đạt vô ngã - 16/06/2019
- Suy nghiệm lời Phật: Khéo nghĩ - 16/06/2019
- Giết gì được Phật khen? - 16/06/2019
- Ý nghĩa bài kệ mở đầu kinh Pháp Hoa - 16/06/2019
- Bản chất cầu nguyện - 16/06/2019
- Quan điểm của Phật giáo về vấn đề tự tử - 16/06/2019
- Ý nghĩa phẩm Pháp sư thứ 10 kinh Pháp Hoa - 16/06/2019
- Suy nghiệm lời Phật: Chớ xem thường trẻ nhỏ - 16/06/2019
- Làm gì khi thất tình? - 16/06/2019
- Ý nghĩa Phẩm Bồ-tát Tùng Địa Dũng Xuất thứ 15 kinh Pháp hoa - 16/06/2019
- Suy nghiệm lời Phật: Biết cách tiêu tiền - 16/06/2019
- Pháp hành bố thí - 16/06/2019
- Hai pháp lành hộ trì thế gian - 16/06/2019
- Phép Hòa Quang Tam Muội Của Hai Thiền Sư Việt - 11/06/2019