Tứ Niệm Xứ
Giáo lý của đức Phật thuyết giảng tuy bao la từ nhân sinh đến vũ trụ, nhưng tựu trung vẫn xoay quanh vấn đề con người.
- DẪN NHẬP
Sau khi thành đạo, đức Thế Tôn đã vận dụng phương tiện để dẫn dắt chúng sanh, đến con đường giác ngộ theo từng căn cơ trình độ của chúng sanh. “Tứ Niệm Xứ” là một trong những phương pháp tu tập, được Thế Tôn thuyết giảng như là kim chỉ nam để đưa đến mục đích giải thoát. Là một trong 37 phẩm trợ đạo thuộc phần Đạo đế.
Thật vậy, giáo lý của đức Phật thuyết giảng tuy bao la từ nhân sinh đến vũ trụ, nhưng tựu trung vẫn xoay quanh vấn đề con người. Lấy con người làm đối tượng quán chiếu, để thấy được vũ trụ vạn hữu, giúp cho con người nhận diện được sự thật của tự thân, tha nhân và xã hội. Đây cũng chính là ý nghĩa cao cả mà đức Phật nhắm đến khi muốn giác ngộ chúng sanh.
Do đó, “Tứ Niệm Xứ” là pháp hành căn bản của Phật giáo. Là con đường thiền tập của chúng ta trong hiện tại. Là thành quả chắc thật, tức là một kết quả vững chắc nhất của chúng ta. Với hệ A Hàm, tu tập Tứ Niệm Xứ là nền tảng để phát sinh ra Tứ Chánh Cần, Tứ Như Ý Túc, Ngũ Căn, Ngũ Lực. Thất Bồ Đề Phần và Bát Chánh Đạo.
Vậy “Tứ Niệm Xứ” là gì? công năng tu tập và lợi ích ra sao? Chúng ta hãy cùng nhau tìm hiêu phần nội dung.
B. NỘI DUNG
I. ĐỊNH NGHĨA
Tứ: Bốn
Niệm: Là nhớ, là nghĩ đến. Để tâm nơi hiện tại tức là niệm. Niệm còn có nghĩa là hằng sống. Chẳng hạn niệm Phật là hằng sống với Phật, niệm tiền sống với tiền, niệm sân sống với sân.
Xứ: Là đề mục, là nơi chốn.
Tứ Niệm Xứ: Là bốn đề mục, bốn nơi chốn, Đức Phật dạy chúng ta phải thường xuyên nhớ nghĩ đến. Gồm có:
- Quán thân bất tịnh
- Quán thọ thị khổ
- Quán tâm vô thường
- Quán pháp vô ngã
II. BỐN ĐỀ MỤC QUÁN NIỆM
1. QUÁN THÂN BẤT TỊNH
Quán: là tập trung tư tưởng để quan sát một cách thấu đáo. (Thích Thiện Hoa (1992), Phật Học Phổ Thông, quyển I, THPG. TPHCM ấn hành.)
Bất tịnh: là không sạch.
Quán thân bất tịnh: là tập trung tư tưởng để quan sát một cách tường tận, về sự dơ bẩn của cái thân ta.
Hơn thế nữa, do lầm chấp thân này là thật (chấp ngã) nên ta yêu quý thân này, bất chấp tất cả kể cả tạo nghiệp xấu ác như sát sanh, trộm cắp, tà dâm.v.v.. cũng chỉ để cung phụng cho cái thân thể trược này. Thế nhưng, theo quan điểm của Phật giáo, thân này là do tứ đại (đất, nước, gió, lữa) và thần thức hợp thành. Là duyên sinh, vô thường, vô ngã, dù đẹp hay xấu, thân người vẫn là bất tịnh.
Thật vậy, thân người có được là do tinh Cha huyết Mẹ và thần thức mà thành (Duyên sinh-vô ngã). Với một người không biết quán chiếu sẽ thấy thân này là đẹp, là bền chắc nhưng nếu chúng ta bình tâm suy xét cho thật kỹ thì thân người là cái đãi da và bên trong đựng toàn là những đồ bất tịnh.
Chẳng hạn như sau một đêm ngủ thức dậy, nếu chúng ta không súc miệng, hoặc sau một ngày ta không tắm rửa thì mùi dơ nhớp xông ra. Ngay như những thức ăn ta cho là ngon, là bổ dưỡng nhưng khi ta đưa qua khỏi cổ họng mình. Sau đó mửa ra, chính ta còn thấy nhờm gớm ăn lại không được. Đó là chưa kể đến giai đoạn bệnh tật như là bệnh cùi, bệnh lở loét, hoặc ung thư chẳng hạn, thì mùi hôi càng thêm khó chịu. Đến khi chết đi rồi (Vô thường) ba ngày sau nếu chưa chôn thì mùi hôi thối càng không thể chịu nổi.
Chúng ta thấy chai dầu thơm khi mình mở nắp thì mùi thơm xông ra, vì bên trong chai dầu thơm là chất thơm nên mùi thơm xông ra. Thân thể của chúng ta được tiết ra từ chín lỗ, vì bên trong của ta chứa những đồ bất tịnh nên mùi bất tịnh xông ra. Chính vì thế trong Kinh “Niệm Xứ”, thuộc Trung Bộ I. Đức Phật dạy phương pháp quán sát thân tứ đại như sau: Quán từ lòng bàn chân đến đỉnh đầu: “Tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, thận, tủy, tim, gan, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, bụng, phân, mật, đàm, (miên dịch), mũ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, mỡ miếng, nước mủ, nước ở khớp xương, nước tiểu”. Đại Tạng Kinh Việt Nam (2003), Kinh Niệm Xứ, Trung bộ I, Nxb Tôn giáo, tr 135 đề cập gồm ba mươi sáu thứ bất tịnh sai biệt.
Sự bất tịnh và tính giả hợp của thân này càng được biểu lộ rõ hơn, mạnh mẽ hơn khi ta quán sát một thi thể quăng ngoài nghĩa địa. Tức quán sát tử thi theo thứ tự:
1. Quán thây mới chết bầm xanh
2. Lần lần sình trương
3. Kế đến nứt nẻ
4. Máu chảy ra
5. Rục rã
6. Lầy thúi
7. Giòi, thú đục, ăn
8. Xương mục
9. Tiêu rụi.
Ðó là quán Cửu tưởng bất tịnh. Quán sát thật như thế ta sẽ thấy “Thân này tính chất là như vậy, bản tánh là như vậy, không vượt khỏi tánh ấy” (Đại Tạng Kinh Việt Nam (2003), Kinh Niệm Xứ, Trung bộ I, Nxb Tôn giáo, tr139). Đấy là lời khẳng định chắc thật của Thế Tôn. Thân này chịu sự chi phối của sanh, già, bệnh, chết. Một thân thể mà ta yêu chuộng ngày nào giờ đây chỉ còn lại nắm tro tàn nguội lạnh. Xấu, đẹp, sang, hèn, đều như thế cả.
Trong kinh Pháp cú Đức Phật dạy:
“Thân này không bao lâu
Sẽ vùi sâu đáy mộ
Như cây khô khúc gỗ
Vứt bỏ vì vô tri.”
Tuy nhiên, quán thân bất tịnh, là vô thường, Duyên sinh vô ngã và sẽ chết đi không có nghĩa là để cho ta bi quan về nó, bỏ rơi hay hủy diệt nó. Bởi lẽ, mục đích của quán thân bất tịnh là nhằm giúp cho con người vượt khỏi những vướng mắc, đau khổ, chấp trước của thân. Quán thân như thế nhằm để đối trị lòng ham muốn sắt dục. Hiểu được như thế, vậy từ nay ta không vì thân này mà sát sanh, trộm cắp, tà dâm… không vì thân này mà này mà gây tạo các nghiệp bất thiện. Ngược lại, phải biết dùng thân này tu tập, làm tất cả các việc lành như bố thí, trì giới, nhẫn nhục, thiền định… dùng thân này làm thuyền bè qua sông sanh tử khổ đau.
2. QUÁN THỌ THỊ KHỔ
Thọ: Cái gì đến với ta, ta nhận lãnh gọi là thọ.
Phật nói có 2 thọ, 3 thọ, 5 thọ, 6 thọ, 18 thọ, 36 thọ, 108 thọ.
2.1. Liệt Kê Các Loại Cảm Thọ:
- 2 Thọ: Thọ khổ, thọ vui. (khổ lạc thọ)
- 3 Thọ: Thọ khổ, Thọ vui, Thọ không khổ không vui. (Khổ lạc xả thọ)
- 5 Thọ: Khổ, Lạc, Xả, Ưu, và Hỷ thọ.
Khổ, lạc, xả: là cái thọ nơi tiền ngũ thức, là thọ bên ngoài.
Ưu, hỷ thọ: là cái thọ nơi ý thức, cái thọ bên trong.
- 6 Thọ: là cái thọ đi ngang trong sáu thức, phát sinh nơi sáu thức:
1. Nhãn thức sở sanh thọ.
2. Nhĩ thức sở sanh thọ.
3. Tỷ thức sở sanh thọ.
4. Thiệt thức sở sanh thọ.
5. Thân thức sở sanh thọ.
6. Ý thức sở sanh thọ.
- 36 Thọ: 18 Thọ trên trong hai giới xất gia và tại gia cũng có 18 thọ ấy. 18 cọng 18 thành 36.
- 108 Thọ: 36 nhân 3 thời (quá khứ, hiện tại, vị lai) thành ra 108 thọ. (Thích Thiện Siêu (1998), Luận về Thọ Uẩn, HVPGVN tại Thành phố Huế, Trang 59)
2.2. Phân tích năm loại cảm thọ căn bản
Khổ thọ: Cảm thọ đắng, khó chịu, bực bội, bức xúc, bất như ý. Thân nhận lãnh khổ. Chẳng hạn như ta bị đứt tay. Cảm giác đau đớn khó chịu.
Lạc thọ: Nhận lãnh điều mình ưa thích. Chẳng hạn như ta đang khát nước và có người đem đến cho ta một ly trà đá. Ta uống vào cảm thấy mát mẻ dễ chịu.
Ưu thọ: Nhận lãnh điều lo lắng, bất an trong tâm. Chẳng hạn như ta làm bể cái bình hoa. Trong lòng luôn lo âu hồi hộp sợ Thầy biết được việc này.
Hỷ thọ: Nhận lãnh điều ưa thích trong tâm. Chẳng hạn như ta đang khát nước, nghe gia chủ mời ta dùng nước và nhìn thấy ly nước đang được từ từ bưng đến cho mình. Dù được mời nước chớ chưa uống nhưng trong lòng ta cũng cảm thấy vui.
Xả thọ: Cảm thọ không khổ, không vui. Tức là gặp hoàn cảnh nào tâm ta cũng buông xả, không chấp trước.
TÓM LẠI
Có thể nói một cách đơn giản, khi tâm tiếp xúc với cảnh sinh ra ba loại cảm thọ: Khổ thọ, Lạc thọ, và Xả thọ.
Khổ Thọ: cảm giác đau khổ, khó chịu khi ta tiếp xúc với cảnh mà ta không ưa thích.
Chẳng hạn như “Khổ Đế” trong “Tứ Diệu Đế” gồm có ‘Tam khổ’ và ‘Bát khổ”
Tam Khổ: Khổ khổ, hành khổ, và hoại khổ.
Bát Khổ: Sanh, lão, bệnh, tử, oán tắng hội, ái biệt ly, cầu bất đắc, ngũ ấm xí thạnh khổ.
Lạc Thọ: cảm giác vui vẻ khi ta tiếp xúc với cảnh mà ta ưa thích
Chẳng hạn như Ngũ dục lạc: Được nhiều tiền, được sắc đẹp, được danh vọng địa vị, được ăn ngon, ngủ kỹ là vui.
Xả Thọ: Thọ không khổ, không vui. Tức là gặp hoàn cảnh nào tâm ta cũng buông xả, không chấp trước.
Chẳng hạn như: chúng ta ngồi đây nghe được tiếng xe chạy, thấy một người qua lại nhưng ta không khổ, không vui. Đây chính là điều quan trọng nhất mà ngưởi tu cần phải biết áp dụng thực hành.
2.2. TẠI SAO THỌ LÀ KHỔ?
Đã là con người, để giữ gìn mạng sống nên ta cần phải thọ nhận như ăn, mặc, ở… do thọ nhận thân này là “ta” là “của ta” ta muốn thân này tồn tại, trẻ đẹp mãi, những thứ như tiền tài, danh vọng, địa vị, tiếng khen lời chê, tham lam, sân hận, lòng yêu thương của người khác…Thế nhưng, thọ cũng là vô thường, duyên sinh, vô ngã.
Sở dĩ có “Khổ” là do chúng ta “Thọ” với tâm tham ái, chấp thủ, chấp ngã, chấp pháp. Chẳng hạn như mình thích ăn sầu riêng mà được người biếu cho một trái thì thích lắm (lạc thọ) Vì thích nên ăn nhiều (tham) ăn nhiều nên nặng bụng, gặp người có nguy cơ dư đường, thế là đường trong cơ thể tăng vọt có khi phải nhờ đến bác sĩ nên khổ. Hoặc nghe người nói chạm tự ái một câu, ta liền nổi tâm sân giận (khổ thọ). Cũng Bởi do ta thọ với tâm tham ái chấp thủ, chấp ngã, chấp pháp nên khổ. chẳng những đau khổ một lần chưa đủ, còn ghi âm, ghi hình vào Alayda, phát lại nhiều lần cho khổ thêm, như trong kinh Pháp Cú Đức Phật dạy:
“Nó mắng tôi, đánh tôi”
Nó thắng tôi, cướp tôi
Ai ôm hiềm hận ấy
Hận thù không thể nguôi”.
Cho nên thọ mà không khổ, cần phải có chánh niệm, tỉnh giác, không chấp ngã, chấp pháp. Muốn được như thế, đối với tất cả cảm thọ phải ta phải biết buông xả, (xả thọ). Kinh Kim Cang Đức Phật dạy: “Bất ưng trụ sắc sinh tâm, bất ưng trụ thanh, hương, vị xúc pháp sanh tâm, ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” (Thích Từ Thông (2009), Kinh Kim Cang Đề CươngTrực Chỉ, NXB Tôn giáo Hà Nội, trang 57).
Đức Phật dạy, đối với sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp không nên trụ tướng sinh tâm, nên giữ chánh niệm mà vẫn ly tướng. Điều này ta thấy ở các vị tu hành có nội lực thâm hậu, chẳng hạn như Các vị Thiền Sư ngộ đạo. Các Ngài cũng thọ, cũng ăn, cũng mặc, cũng sinh hoạt, đi, đứng, nằm ngồi như ta nhưng Các Ngài không khổ. Bởi Các Ngài biết buông xả “Thọ” với tâm “Chánh niệm, Tỉnh giác”. Tức là Các Ngài xa lìa được tâm “tham ái, chấp thủ”. Như trong Thích Minh Châu (1990), Kinh Pháp Cú, Trường Cao cấp Phật học Việt Nam, cơ sở II ấn hành, Phật dạy:
“Nó mắng tôi, đánh tôi
Nó thắng tôi, cướp tôi
Không ôm hiền hận ấy
Hận thù được tự nguôi”.
Do đó, đối với cảm thọ chúng ta hãy cẩn thận khi tiếp xúc, phải phòng hộ sáu căn (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý) khi tiếp xúc với sáu trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) cần phải có chánh niệm tỉnh giác, không tham ái chấp thủ. Nếu không như thế thì các nghiệp bất thiện sẽ khởi lên và sẽ dẫn ta đến chổ thọ khổ.
Tóm lại, tất cả các pháp hữu vi (Chỉ cho các pháp sanh diệt) là vô thường, duyên sinh, vô ngã. Cho nên đối với: được, mất; hơn, thua; phải, trái; tốt, xấu…khi ta thọ nhận cần phải có chánh niệm tỉnh giác, không sanh tâm tham ái chấp thủ, và nhất là cần phải biết buông xả.
Muốn được như thế ta không nên tham đắm vào các thứ ngũ dục lạc (Tài, sắc, danh, thực, thùy). Đối với cảnh ta không thấy có gì đáng ưa, cũng không thấy có gì đáng ghét. Có như thế, ta mới được an nhiên tự tại, thoát vòng khổ đau.
3. QUÁN TÂM VÔ THƯỜNG
Tâm: là một trạng thái không có hình tướng, nhờ vào những suy nghĩ, lời nói và hành động phát ra bên ngoài mà ta biết có tâm.
Chẳng hạn như thấy người gặp nạn, một người khởi tâm thương xót và đến giúp đỡ họ, Ta nói người này có tâm tốt.
Vô Thường: là không thường.
Quán Tâm Vô Thường: Tức là lúc nào ta cũng nhìn lại các ý tưởng, từ cái móng khởi trong tâm luôn biến đổi không ngừng.
Chúng ta thấy dòng nước chảy, thật ra dòng nước ấy là do từng giọt nước nối nhau tạo thành. Cũng như thế, tâm của chúng ta luôn luôn sanh khởi những ý tưởng cứ liên tục, từ ý niệm nầy sang ý niệm khác tạo thành dòng tâm thức luôn luôn trôi chảy.
Lúc nghĩ chuyện nầy, khi nghĩ chuyện khác. Buồn, thương, giận, ghét…thay đổi không dừng nên trong Duy Thức gọi là “Tâm viên, ý mã” Tức là chỉ cho tâm con người lăn xăn, vọng tưởng như khỉ chuyền cây, như ngựa chạy rong ngoài đồng nội. Gặp cảnh vừa lòng toại ý thì hồ hởi vui vẻ, bằng ngược lại thì phiền não bất an, hôm nay yêu thương người hết mực, ngày mai lại ghét bỏ. Qủa thật là:
“Con người ý vọng gồm hai
Khi mừng khi giận đổi thay không lường
Vội vàng khi ghét khi thương
Khi vui vui ngất, khi buồn buồn hiu.”
Muốn ưa tạo sắm đủ điều
Rồi khi chê chán bỏ liều như chơi”.
Tuy nhiên, tâm không có cái ngã của nó. Trên cơ sở đó, tâm sanh là do sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Bản thân các yếu tố này cũng do duyên sinh, vô thường, vô ngã. Cho nên tâm cũng vô thường, vô ngã. Hơn nữa, nghiệp là do tâm tạo. Kinh Pháp Cú Đức Phật dạy:
“Tâm như họa sĩ khéo
Vẽ thế giới muôn màu
Đọa sa hay thành Phật
Cũng tâm ấy mà ra”.
Do đó, thật nguy hiểm khi ta chấp tâm là thường hằng và bảo rằng do bản tánh của mình không thể sửa được “Tánh tôi” hay nóng giận. Tánh tôi hay tự ái.v.v.. mà đã chấp tâm là thường thì làm sao chuyển đổi được nghiệp. Như vậy, trầm luân vẫn cứ trầm luân, không thể khai mở trí tuệ để đi vào giác ngộ.
Và nếu chấp như vậy thì cuộc đời này quả là một xã hội bất bình đẳng và mãi mãi rối loạn, băng hoại. Vì nhân tâm con người không thể thay đổi được. Vai trò của giáo dục, đạo đức sẽ không có giá trị. người tham vẫn cứ tham, người sân vẫn cứ sân. Chúng sanh mãi mãi là chúng sanh, không có quá trình tu tập để giải thoát.
Kinh Tạp A Hàm Đức Phật dạy: “Này các Tỳ Kheo, chấp tâm thức là thường còn, còn sai lầm và tệ hại hơn là chấp thân xác là thường còn. Vì thân xác người còn có thể tồn tại vài chục năm cho tới một trăm năm, còn tâm thức của người thì sanh diệt đổi thay trong từng giây phút”. Chính vì tâm biến đổi vô thường hay sanh khởi các ý nghĩ tiêu cực, nên chúng ta cần phải phòng hộ tâm Như Kinh Pháp Cú Đức Phật dạy:
“Tâm khó thấy tế nhị
Theo các dục quay cuồng
Người trí phòng hộ tâm
Tâm hộ an lạc đến”.
Do đó, phòng hộ tâm cũng chính là tu tâm, tức chuyển hóa tâm. Từ cái tâm lăn xăn vọng tưởng, ích kỷ, hay nghĩ hơn thua, phải quấy, được mất, tốt xấu v.v..Ta chuyển thành tâm tích cực “Từ, Bi, Hỷ, Xả” cần phải dụng tâm như người thợ vườn khéo dụng đất.
Thật vậy, Tâm ví như mảnh đất, nếu ta khéo trồng hoa màu thì cỏ dại không có chỗ để phát sinh. Cũng như thế, tâm được dụng công tu tập, nghĩ điều lành, làm điều lành, thì các nghiệp xấu ác không có cơ hội phát triển. Vì thế, “Quán Tâm vô thường” để chúng ta trở về sống với tâm chân thường (thanh tịnh) không còn phiền não khổ đau.
4. QUÁN PHÁP VÔ NGÃ
Pháp: Tiếng phạn Dhamma. Trung hoa dịch là quỹ trì, nghĩa là nắm giữ phạm vi của mình, tức là chỉ cho tất cả các pháp như Có hai phần:
Phần thô: Thuộc về sắc pháp. Có hai phần: Hữu hình và vô hình.
- Hữu hình: (có hình tướng) như: bàn, ghế, đất đai, nhà cửa ruộng vườn, lớn như sơn hà vũ trụ, nhỏ như bò bay máy cựa vi tế côn trùng, cho đến con người…
- Vô hình: (không có hình tướng): là những pháp không thể nhìn thấy bằng mắt, hoặc sờ bằng tay, đôi khi chúng biểu lộ ra bên ngoài ta có thể nhận diện. Chẳng hạn như dòng điện, điện thì ta không nhìn thấy hình tướng dài, ngắn, mập, ốm ra sao, nhưng khi ta thấy bóng đèn sáng, thấy quạt xoay… ta biết có điện.
Phần tế: Thuộc về tâm pháp. Có hai phần: Tiêu cực và Tích cực.
- Tíêu cực: là những pháp bất thiện như: Tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến.v.v..
- Tích cực: là những pháp thiện như: không tham, không sân, không si, tàm, quý.v.v..
Vô: là không. Không ở đây không phải là trống rỗng, mà là chân không dịệu hữu.
Ngã: chỉ cho chủ thể cố định bất di bất dịch. Là ta, là cái tôi hiện hữu.
Quán pháp vô ngã: Tức là nhận rõ tất cả các pháp hữu vi đều là không thật có, là do nhân duyên sanh diệt.
Thông thường, chúng ta hay “chấp ngã ”, “chấp pháp” Chấp cái này là tôi (Ngã) , là tự ngã của tôi (Ngã sở) và như những trường phái số luận của Bà La Môn giáo, họ luôn cho rằng có một cái ngã trường tồn bất biến không thay đổi.
Thế nhưng, theo quan điểm của Phật giáo. Tất cả các sự vật hiện tượng cho đến con người đều là giả danh, là không thật có, là do duyên sanh nên vô thường, vô ngã.
Kinh “Phật Tự Thuyết” Tiểu Bộ Kinh I, Đức Phật dạy:
“Do cái này có nên cái kia có
Do cái này không nên cái kia không
Do cái này sanh nên cái kia sanh
Do cái này diệt nên cái kia diệt”.
Chẳng hạn như cái bàn là giả danh, là không thật có. Do nhân duyên hòa hợp từ các vật liệu như gỗ, đinh, người thợ.v.v.. Nhờ hội đủ các yếu tố cần thiết nên chúng hiển nhiên thành cái bàn.
Đến khi nhân duyên hết, các thứ ấy trở nên hư mục không còn tồn tại. Lúc đó, hình tướng cái bàn được chuyển hóa thành củi, và lại tiếp tục thành tro, thành đất... cứ luân chuyển như thế.
Thân con người cũng không khác, là do tứ đại đất, nước, gió, lửa thuộc “sắc pháp” và thọ, tưởng, hành, thức, thuộc “tâm pháp” mà thành. Trãi qua một thời gian tồn tại rồi cũng đi đến hoại diệt, tan rã.
Kinh “Vô Ngã Tướng” Tưng Ưng Bộ III Đức Phật dạy:
“Này các Tỳ kheo! sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn là vô ngã, không phải là của ta. Này các Tỳ kheo! nếu các uẩn thật là của ta, thì chúng không bị đau khổ. Lại nữa, người đời có thể nói xin cho các uẩn của ta như thế này hoặc đừng như thế kia.
Này các Tỳ kheo! các uẩn thật là vô ngã nên hằng bị đau khổ. Lại nữa, người đời không có thể nói xin cho các uẩn của ta như thế này hoặc đừng như thế kia.
Này các Tỳ kheo! các ngươi cho sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn là thường hay vô thường?
Bạch Đức Thế Tôn, các uẩn là vô thường.
Vật chi vô thường, vật ấy là khổ hay vui?
Bạch Đức Thế Tôn, vật ấy là khổ.
Vật chi vô thường là khổ, có sự biến hoại theo lẽ thường, thì nên cho vật ấy là của ta, là ta, là tự ngã của ta chăng?
Bạch Đức Thế Tôn, chẳng nên.
Này các Tỳ kheo! cho nên sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn nào dù trong đời quá khứ, vị lai, hiện tại, bên trong, bên ngoài, thô thiển,vi tế, hạ liệt, thù thắng, gần hoặc xa, các uẩn ấy chỉ là uẩn thôi. Các ngươi nên nhận thức chân lý ấy bằng chánh trí đúng theo thực tướng như vầy: đó chẳng phải là của ta, chẳng phải là ta, chẳng phải là tự ngã của ta.
Này các Tỳ kheo! bậc thinh văn được nghe và thấy như thế rồi, liền sanh tâm nhàm chán đối với sắc, đối với thọ, đối với tưởng, đối với hành, đối với thức. Do nhàm chán vị ấy ly tham. Do ly tham, tâm được giải thoát. Khi tâm được giải thoát vị ấy chứng đắc tuệ giải thoát và biết rõ sự sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những gì nên làm đã làm và không còn tái sanh nữa.” (Thích Minh Châu (2001), Kinh Vô Ngã Tướng, Tương Ưng Bộ III, NXB Tôn giáo, ấn hành trang 66)
Qua bài Kinh Vô Ngã Tướng Đức Phật chỉ rõ đường lối phá bỏ sự cố chấp bám vào thân tâm năm uẩn nầy. Vì thế, cho dù ta có cố chấp cái này là “tôi, là của tôi… (chấp ngã, chấp pháp) ta chỉ càng thêm đau khổ mà thôi.
Tuy nhiên, nhờ vô ngã, thế giới mới sinh khởi và tồn tại. Chúng ta thử đi vào quán sát mọi hiện tượng sau đây:
-- Vì carbon (C) và sắt (Fe) là vô tự tính nên mới có hợp chất của gang và thép. Vì hydro và oxy, v.v... là vô tự tính nên mới có tổng hợp của nước, mới có các phản ứng hóa học.
--Vì hư không là vô ngã nên mới vừa tối, vừa sáng, có nắng, có mưa, có bốn mùa vận hành. Nếu hư không có ngã tính thì chỉ có hoặc tối, hoặc sáng, v.v...
--Nếu con người có ngã thì sẽ hoặc dốt, hoặc thông, hoặc khỏe, hoặc bệnh, mà không thể chuyển đổi từ dốt sang thông, từ buồn sang vui, từ thất vọng qua hy vọng, từ ghét hận thành yêu thương...
-- Vì các hiện tượng xã hội vô ngã nên mới có thể cải tạo, chấn hưng.
-- Vì vô ngã nên các pháp dung nhiếp nhau, mới có lý và sự vô ngại.
Nói tóm lại, vì vô ngã tính mà các tính được thành lập.
Khi thấy rõ vô ngã tính của các pháp thì tham ái và chấp thủ sẽ tan dần, khổ não sẽ tiêu đi, và giải thoát đến. Bấy giờ thực tại các pháp Duyên sinh trở về chính nó. Nó là như thế, mãi mãi như thế. Kinh Pháp Hoa gọi đây là "Thế gian tướng thường trú". Nó không bị nhân quả hay bị duyên sinh. Nhân quả và duyên sinh là chính nó. Đây là tánh "Không" của Bát nhã, tánh "Như thị" của Pháp Hoa, và là tánh "Diệu hữu" của Hoa Nghiêm, Niết-bàn.
Vì thế, Thích Từ Thông (2010), Chứng Đạo Ca. Trực chỉ đề cương, Nxb Tôn giáo Hà Nội, có nói:
“Vạn pháp giai không
Duyên sanh như huyển”.
Khi biết thân nầy là vô ngã, tức là không thật, thì đối với khen, chê cũng không thật. Do đó, dù bị người mắng chửi nếu chúng ta tư duy quán chiếu thân nầy là giả thì thắng thua, buồn giận để làm gì.
(Dẫn chuyện) Kinh Pháp Cú phẩm Phật Đà
Khi xưa, có người Bà la môn đi theo mắng chửi Đức Phật rất thậm tệ. Ông càng chửi, Đức Phật càng thản nhiên. Sau cùng ông chạy theo la lớn: “Này Cù Đàm! Ông có điếc không? Sao ta chửi mà ông không đáp lại? Đức Phật ôn tồn đáp: “Này Bà La Môn, nếu có người chủ tặng quà, nhưng người khách không nhận thì món quà ấy thuộc về ai?” Ý Phật muốn nói là ông chửi thì ông nghe vậy thôi. Ta chẳng hề quan tâm đến thì đâu có phiền não.
(Dẫn chuyện) SƯ TỬ VÀ CỪU CON
Câu chuyện ngụ ngôn của một tu sĩ Ấn Độ tên là Vivekananda như sau:
Một con sư tử có thai, gần ngày sanh, đang nằm đói xếp ve trong bụi rậm đã mấy ngày. Khi đó có một đàn cừu đi ngang qua. Sư tử mừng quá cố thu hết tàn lực lao mình vào đàn cừu. Không ngờ vì nhảy quá mạnh, sư tử bị sẩy thai và chết. Sư tử con được đàn cừu nuôi dưỡng cho đến lớn. Từ đó sư tử con sống đời sống của cừu, ăn thì ăn cỏ còn kêu thì be-he.
Một hôm một con sư tử già đi kiếm mồi, khi gặp đàn cừu và vừa muốn ra tay thì cả đàn hốt hoảng mạnh ai nấy chạy cho nhanh. Sư tử già rượt đuổi theo bỗng thấy trong đám cừu có một chú sư tử con. Tính tò mò sư tử già cố tâm tìm ra sự thật. Tình cờ, một ngày nọ, sư tử già gặp chú sư tử con đang nằm ngủ một mình gần khe suối. Nhót gót lại gần và để cho chú sư tử con không kinh hãi, sư tử già mới thủ thỉ vào tai sư tử con.
- Mày là sư tử, sao lại làm thói cừu con như vậy?
Chú sư tử con thức giấc, mở mắt thấy ông đầu xòm, run lên như cầy sấy:
- Lạy ông tha cho con
- Sư tử già bèn lôi chú sư tử con sát khe nước và nói:
- Mày thử ngó xuống nước coi!
- Sư tử con hết sức kinh ngạc nghĩ thầm:
- Sao mình cũng đầu bồm, cũng nanh nhọn, oai phong lẫm liệt như ông tướng nầy!
Nghĩ tới đây, sư tử con gầm lên một tiếng chuyển động núi rừng, rồi nhảy tuốt vào rừng sâu. Tất cả chúng ta ví như chú Sư Tử con, do vì lầm tưởng mình là Cừu (chấp ngã) nên từ trước tới nay đã sống đời Cừu. Hãy ngó xuống giòng sông Bát Nhã thì chúng ta sẽ thấy mình không phải là cừu “Phàm phu ngũ uẩn” đang sống trong sợ hãi ưu phiền mà là Sư Tử “Phật tánh Chơn Không” chúa tể của sơn lâm vũ trụ. Nếu biết được cái Phật tánh Chơn Không nầy sẽ không còn phiền sợ nữa và đây chính là: “Độ nhất thế khổ ách”. Và muốn được như thế phải trở về sống với “Chơn tâm thường trú” thôi. Tức là khi được không hãnh diện, khi mất cũng không buồn. Bởi tất cả là vô thường, vô ngã, là chơn không diệu hữu. Quán được như thế gặp hoàn cảnh nào thân tâm mình cũng an định thì cuộc đời làm gì có khổ đau.
- KẾT LUẬN
Con người thường hay chạy theo trần cảnh nên khổ, và không biết rằng tất cả các pháp hữu vi đều là vô thường, vô ngã, là do nhân duyên sanh diệt. Cho nên, tu tập “Tứ Niệm Xứ” là để đối trị tâm tham ái, chấp thủ (chấp ngã, chấp pháp).
Vì thế, “Tứ niện xứ” là bức thành trì kiên cố để ngăn chặn giặc phiền não. Là bước đi đầu tiên trên con đường tìm về bến giác. Là con đường thiền định giúp cho ta thanh lọc hóa thân tâm.
Chư Phật, Chư Bồ tát, Chư thánh Hiền đều không rời Tứ niệm xứ mà thành tựu đạo quả. Chính vì thế, Kinh Trung Bộ Đức Phật khẳng định: “Đây là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt qua sầu não, dứt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ”. (Thích Minh Châu (1992), Trung Bộ Kinh, tập I, VNCPHVN ấn hành, trang 131)
Do đó, hành giả tu theo bất cứ pháp môn nào thì khi thực hành phương pháp “Tứ Niệm Xứ” vẫn có giá trị lợi ích thiết thực giúp cho hành giả không tham đắm các thứ ngũ dục lạc, dễ dàng nhiếp niệm khi tu tập. Và được trở về sống với chơn tâm (thanh tịnh) không còn phiền não khổ đau.
Dù tại gia hay xuất gia, dù theo đạo Phật hay không theo Đạo Phật, nếu chúng ta không biết thực hành “Tứ niệm xứ” thì chắc chắn ta không thoát khỏi cơn sóng thần nhiền não, càng nhận ta chìm vào cảnh giới của vô minh. Nhưng nếu ta biết thực tập “Tứ niệm xứ” vào cuộc sống trong mọi lúc, mọi nơi, mọi hoàn cảnh, thì dù sống giữa cảnh khổ ta không khổ. Và được tự tại, an lạc, giải thoát ngay nơi đây.
Tinh thần của TỨ NIỆM XỨ, quán niệm như vậy là vọng niệm, vì đã đi ra khỏi sự theo dõi chính mình. Chánh Niệm trong khi ăn là theo dõi sự ăn để tìm hiểu tại sao ta phải ăn? Tại sao ta khổ vì đói? chữ chánh trong đạo Phật có nghĩa là hướng đúng về mục tiêu Niết Bàn (lúc khổ được tận diệt). Làm chệch ra khỏi hướng đó thì là tà (trật). vì sự khổ chỉ hoàn toàn chấm dứt khi sự thật vô ngã được chứng nghiệm, cho nên chánh cũng là hướng về sự phát triển trí tuệ vô ngã.
Chánh niệm là luôn luôn “tâm niệm” (mindfulness) khách quan khảo sát chính ta. Bất chấp nó tốt hay xấu, bất chấp nó khổ hay vui, bất chấp nó thiện hay ác. Sự khảo sát này có 2 tính chất chính: liên tục và khách quan. Ví dụ, khi tâm tinh tấn tu hành, biết tâm đang có sự tinh tấn. Khi tâm chán nản, biết tâm đang chán nản. Nếu tâm tinh tấn chống cự, biết tâm đang tinh tấn chống cự, nếu tâm có khuynh hướng chịu thua, biết tâm muốn chịu thua. Dầu thế nào đi nữa, phải luôn luôn khách quan nhận rõ những gì đang xảy ra. Như thế, thì vẫn ở trong chánh niệm. Duy trì tâm khách quan như thế để sẽ thấy rõ nhân duyên sinh khởi của các ngũ uẩn, để từ đó chứng thực sự thật vô ngã. Đạo Phật là để hết khổ, không phải để làm cho ta hay hơn hoặc tốt hơn. Hay hơn hoặc tốt hơn mà còn Ngã chấp, còn chấp thủ ngũ uẫn, thì vẫn còn khổ như thường.
- Giá trị nhân văn của ngày tri ân cha mẹ - 05/07/2024
- Sự kiện tháng tư - 15/05/2024
- Người mang trí tuệ đến nhân gian - 14/05/2024
- Kính mừng Phật đản - 30/04/2024
- Phật giáo và vai trò kiến tạo giá trị đạo đức trong phát triển bền vững tại Việt Nam - 28/08/2023
- Kinh Pháp Hoa Bổn Môn - 22/10/2022
- Kinh sám hối hồng danh - 22/10/2022
- Kinh Vu Lan - 22/10/2022
- Kinh Dược Sư - 22/10/2022
- Kinh Di Đà - 22/10/2022
- Ý nghĩa xuất gia - 17/10/2022
- Tam thân Phật - 17/10/2022
- Tam pháp ấn - 17/10/2022
- Tứ chánh cần - 17/10/2022
- Bát Chánh Đạo - 17/10/2022
- Lục độ - 15/10/2022
- Đi Chùa lễ Phật - 15/10/2022
- Thất Thánh Tài - 15/10/2022
- Tứ quả Thanh Văn - 15/10/2022
- Thập Thiện Nghiệp - 15/10/2022
- Tứ Vô Lượng Tâm - 15/10/2022
- Tứ Nhiếp Pháp - 15/10/2022
- Lục Hòa - 15/10/2022
- Nghiệp báo - 15/10/2022
- Ngũ Đình Tâm Quán - 15/10/2022
- Ăn chay theo quan điểm đạo Phật - 15/10/2022
- Ngũ căn – Ngũ lực - 15/10/2022
- Luân hồi - 15/10/2022
- Tụng kinh – niệm Phật - 15/10/2022
- Ngũ thừa Phật giáo - 15/10/2022
- Sám hối - 15/10/2022
- Đạo Phật - 15/10/2022
- Tam Vô Lậu Học - 15/10/2022
- Ngũ uẩn - 15/10/2022
- Tam pháp ấn - 15/10/2022
- Mười hai nhân duyên - 15/10/2022
- Tứ Diệu Đế - 15/10/2022
- Ý nghĩa thành đạo - 15/10/2022
- Quán Từ Bi - 15/10/2022
- Vô thường - 15/10/2022
- Nhân quả - 15/10/2022
- Quy y Tam Bảo - 15/10/2022
- Tứ vô lượng tâm - 15/10/2022
- Ý nghĩa Phật Đản - 15/10/2022
- Vu lan báo hiếu - 15/10/2022
- Cắt đứt tham dục - 06/05/2022
- Hồng danh sám hối - 03/01/2022
- Lợi hành nhiếp của Phật giáo: Hiếu ứng quan tâm hạnh phúc và lợi ích - 07/05/2021
- Hạnh nguyện của người xuất gia - 25/11/2020
- Đức Phật - Mùa Phật Đản - 30/04/2020
- Tứ Vô Lượng Tâm - 28/04/2020
- Chữ Hiếu Trong Đạo Phật - 26/04/2020
- Đi Chùa Lễ Phật - 26/04/2020
- Tướng tùy tâm sinh: Người có tâm từ bi sẽ được cải biến cả dung mạo lẫn số mệnh - 12/04/2020
- Hạnh phúc nhặt bên đường - 25/11/2019
- Phụ Nữ Trong Chánh Pháp - 25/11/2019
- Thánh hạnh vĩ đại của Đức Phật - 25/11/2019
- Kiểm soát sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý - 25/11/2019
- Đức Phật: Con người của mọi thời đại - 25/11/2019
- 620 câu hỏi trắc nghiệm giáo lý căn bản - 24/11/2019
- Nương theo hạnh nguyện Quán Âm - 22/07/2019
- Lời Phật dạy sâu sắc về việc hãy sống trọn vẹn hạnh phúc trong hiện tại - 18/07/2019
- Đức Phật dạy về sự bình đẳng dù sinh con trai hay con gái - 18/07/2019
- Tội nào nặng nhất, nghiệp báo đáng sợ nhất? - 18/07/2019
- Rượu gây ra 36 tội lỗi nên đức Phật cấm uống, cấm mời, cấm buôn bán rượu - 18/07/2019
- Lời Phật dạy sâu sắc về việc nhẫn nhịn trong cuộc sống - 18/07/2019
- Đức Phật dạy về cúng thí và ngạ quỷ - 18/07/2019
- Mê tín dị đoan, do đâu? - 17/07/2019
- 9 cách thay đổi số phận khi áp dụng các giáo lý nhà Phật - 15/07/2019
- Bốn hạng người luôn sống khổ - 15/07/2019
- Theo lời Phật dạy thì không có ai là đấng sáng thế - 06/07/2019
- Luận bàn về ranh giới giữa Mê và Ngộ - 06/07/2019
- Đạo Phật và nghệ thuật hóa giải sân hận - 06/07/2019
- Tôn giả Ma Ha Ca Diếp: Người dốc lòng giữ gìn phạm hạnh - 06/07/2019
- Tại sao đức Phật lại nói về thuyết luân hồi? - 06/07/2019
- Pháp tu căn bản của Phật tử - 06/07/2019
- Làm ơn hãy nghĩ đến sự tồn vong của chánh pháp và lợi ích chúng sanh - 06/07/2019
- Tu chứng - 06/07/2019
- Điều phục ý căn - 06/07/2019
- Hiểu và Ngộ - 06/07/2019
- Thiền và tâm lý trị liệu - 06/07/2019
- Tâm linh Phật giáo và xã hội đương đại - 06/07/2019
- Khái niệm giải thoát và giải thoát sinh tử trong đạo Phật - 06/07/2019
- Pythagore và thuyết luân hồi - 06/07/2019
- Đức Phật là thầy dẫn đường bậc mô phạm đạo đức - 06/07/2019
- Bàn về hai chữ cư sĩ trong kinh Tăng nhất A-hàm - 06/07/2019
- Cuộc sống hoàn toàn tốt đẹp bền vững theo Phật giáo - 06/07/2019
- Nguồn gốc và ý nghĩa của kinh Lương hoàng sám pháp và Thủy sám pháp - 06/07/2019
- Đức Phật dạy về cách xa lìa ái dục, xử lý năng lượng tình dục - 06/07/2019
- Các thiên tài nổi tiếng lý giải về Đức Phật - 06/07/2019
- Thế nào là mười nghiệp lành? - 06/07/2019
- Cuộc sống hoàn toàn tốt đẹp bền vững theo Phật giáo - 30/06/2019
- Bố thí, cúng dường cũng có năm bảy đường - 30/06/2019
- Hạnh phúc của người Phật tử - 16/06/2019
- Pháp lạc trong tu học - 16/06/2019
- Quán vô thường để chứng đạt vô ngã - 16/06/2019
- Suy nghiệm lời Phật: Khéo nghĩ - 16/06/2019
- Giết gì được Phật khen? - 16/06/2019
- Ý nghĩa bài kệ mở đầu kinh Pháp Hoa - 16/06/2019
- Bản chất cầu nguyện - 16/06/2019
- Quan điểm của Phật giáo về vấn đề tự tử - 16/06/2019
- Ý nghĩa phẩm Pháp sư thứ 10 kinh Pháp Hoa - 16/06/2019
- Suy nghiệm lời Phật: Chớ xem thường trẻ nhỏ - 16/06/2019
- Làm gì khi thất tình? - 16/06/2019
- Ý nghĩa Phẩm Bồ-tát Tùng Địa Dũng Xuất thứ 15 kinh Pháp hoa - 16/06/2019
- Suy nghiệm lời Phật: Biết cách tiêu tiền - 16/06/2019
- Pháp hành bố thí - 16/06/2019
- Hai pháp lành hộ trì thế gian - 16/06/2019
- Phép Hòa Quang Tam Muội Của Hai Thiền Sư Việt - 11/06/2019